Chúa nhật II Thường Niên: Hai dấu chỉ ở Cana

thumbnail?id=1q8WBh8eO7jbeyZjxgelK0sa0JSLlkC l&sz=w692

1Khi ấy, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giê-su. 2Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mới tham dự. 3Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giê-su nói với Người : “Họ hết rượu rồi.” 4Đức Giê-su đáp : “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi ? Giờ của tôi chưa đến.” 5Thân mẫu Người nói với gia nhân : “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.”

6Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do-thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. 7Đức Giê-su bảo họ : “Các anh đổ đầy nước vào chum đi !” Và họ đổ đầy tới miệng. 8Rồi Người nói với họ : “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc.” Họ liền đem cho ông. 9Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hóa thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), ông mới gọi tân lang lại 10và nói : “Ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh giữ lại rượu ngon mãi cho đến bây giờ.” 11Đức Giê-su làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.

HAI DẤU CHỈ Ở CA-NA

Ca-na bây giờ là một làng cách Na-da-rét 6km về phía đông bắc, nhô cao trên nó là gác chuông của một ngôi nhà thờ dòng Phan-xi-cô. Nhà thờ này đã được xây dựng để kỷ niệm “dấu chỉ” đầu tiên trong bảy dấu chỉ mà Tin Mừng Gio-an mô tả cho chúng ta. Như đã biết, “dấu chỉ” là từ mà tác giả Tin Mừng thứ tư dùng để gọi tên các phép lạ Đức Giê-su làm : chúng như bằng chứng cho thấy một ý nghĩa sâu xa hơn so với hành vi kỳ diệu và gây kinh ngạc mà Đức Giê-su hoàn tất. Nơi trình thuật “dấu chỉ” Ca-na, chúng ta thấy ý nghĩa sâu xa là ý nghĩa về Đấng Mê-si-a. Như câu chuyện rất giàu tính biểu tượng của Chúa nhật tuần trước (các chiêm tinh gia), kết cấu trình thuật của Gio-an hôm nay cũng khuyên chúng ta từ bỏ ý nghĩ muốn biết đích xác sự việc xảy ra như thế nào, trái lại hãy theo Gio-an mà lẩy ra ý nghĩa thần học sâu xa tiềm ẩn trong một sự việc cụ thể. Trong câu chuyện duy mình ông kể, cũng thấy xuất hiện Đức Ma-ri-a, mà Tin Mừng thứ tư không bao giờ nói rõ tên, một chỉ nêu tước hiệu : “thân mẫu Đức Giê-su” (được nhắc tới bốn lần trong bản văn này). Các sách ngoại/ngụy kinh, bao giờ cũng với một chút tò mò hay tưởng tượng, cho chúng ta biết sở dĩ Đức Giê-su tham dự bữa tiệc cưới này vì Đức Ma-ri-a là dì của chú rể.

1. Dấu chỉ tiệc cưới

Chìa khóa thứ nhất dẫn vào lối đọc ý nghĩa biểu tượng của trình thuật là việc lặp đi lặp lại ngay từ đầu chữ “tiệc cưới”, một chữ vốn đã giàu ý nghĩa tiên trưng ngay từ Cựu Ước. Chìa khóa thứ hai là việc quy chiếu các nhân vật và hành động của họ về Đức Giê-su : “thân mẫu Người”, “các môn đệ Người.”

Đang giữa tiệc cưới thì sự cố xảy ra. “Thân mẫu Đức Giê-su nói với Người : Họ hết rượu rồi. Đức Giê-su đáp…”. Ta hãy dừng lại một chút trên cuộc đối thoại có phần lạnh lùng đã khiến các nhà chú giải và nhà thần học đổ không biết bao nhiêu mực : “Chuyện đó can gì đến bà và tôi.” Thật thế, câu nói có nhiều ý nghĩa khác nhau tùy như đã được thốt lên với âm điệu nào, nhưng có lẽ nó chẳng có ý bày tỏ sự bực mình mà chỉ diễn tả thái độ chống đối theo quy tắc lịch sự Đông phương là không muốn dấn thân vào một hành động đề nghị. Tước hiệu “bà” chẳng phải là dấu xa cách lạnh lùng song là một cách gọi nhằm nêu bật vai trò của Đức Ma-ri-a, E-va mới. Rồi đây nó sẽ được dùng lại với Người một lần nữa trong cảnh cuối cùng bên thập giá (“Thưa bà, này là con bà”).

Thoạt tiên, từ chối làm theo yêu cầu của thân mẫu, Đức Giê-su chỉ nhằm cho thấy điều kiện cần thiết để Người can thiệp, tức “giờ” của Người, còn chưa đến. Đối với Gio-an, “giờ” tiêu biểu là giây phút trọng đại, lúc Đức Ki-tô chịu tử nạn và được tôn vinh để trở thành nguồn ơn cứu rỗi cho nhân loại, để “ban rượu Giao ước mới” (Mt 26,27). Như thế, cử chỉ Người sắp thực hiện phải được coi như một “dấu chỉ”, nghĩa là như một mũi tên chỉ về kết cục vinh quang. Đức Giê-su không muốn làm một dấu lạ ngoạn mục để vừa lòng mẹ mình hay giải quyết một khó khăn thường nhật cụ thể. Qua các hành vi quyền phép và kỳ lạ của mình, Người chỉ muốn trao ban mạc khải về mầu nhiệm thần linh tối hậu của mình thôi. Chính dưới ánh sáng đó mà Đức Ma-ri-a hiểu ngay ý nghĩa đích thật trong câu trả lời xem ra tiêu cực của Đức Giê-su, thành thử đã không do dự nói với các kẻ giúp việc : “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.

Lúc ấy, trước đôi mắt sửng sốt của mọi người, xảy ra “dấu chỉ” lớn : sáu chum đá, mỗi chum đựng từ 80 đến 120 lít đã biến thành rượu nho thượng hạng đến độ khiến viên quản tiệc phải kinh ngạc thán phục. Chúng ta chớ nên quên rằng tiệc cưới trong Kinh Thánh là một biểu tượng lớn về Đấng Mê-si-a, về thời Mê-si-a, như được xác nhận qua cảnh đẹp như tranh của “bữa tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” đã được I-sai-a phác họa (26,6) và được xác nhận bởi chính Đức Giê-su trong dụ ngôn Tiệc cưới của mình (x. Mt 22,1-14). Quả thế, Đấng Mê-si-a đã luôn được trình bày như Hôn phu của dân Người, và rồi đây Khải huyền Gio-an cũng nói vậy qua hình ảnh thời danh là tiệc cưới giữa Con Chiên và Giê-ru-sa-lem. Trong bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay, chính Thiên Chúa cũng được trình bày như Hôn phu : “Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho TC người thờ” (Is 62,4-5).

2. Dấu chỉ rượu ngon

Nhưng sự dư thừa rượu ngon “làm phấn khởi lòng người” (Tv 104,15) còn là một biểu tượng khác của thời Mê-si-a theo các ngôn sứ (x. Am 9,13-14; Hs 14,7; Gr 31,12), đến độ truyền thống Do-thái giáo đã mô tả thời Đấng Mê-si-a tới như sau : bấy giờ mỗi cây nho sẽ có ngàn cành, mỗi cành sẽ có ngàn chùm, mỗi chùm sẽ có ngàn quả, mỗi quả sẽ sản xuất được 460 lít rượu nho ! Do đó, rõ ràng là qua tất cả diễn tiến của trình thuật, “dấu chỉ” tiệc cưới Ca-na muốn chuyền cho chúng ta một sứ điệp thần học : Đức Ki-tô là “rượu ngon” và là “rượu cuối cùng”, nghĩa là hồng ân tuyệt hảo của Chúa Cha. Và chính Đức Ma-ri-a, người “đàn bà” hoàn hảo, E-va mới, giới thiệu Đức Ki-tô cho chúng ta trong sứ mệnh cứu thế của Người, trong “giờ” long trọng của Người, nguồn suối hân hoan và sức mạnh giải phóng khỏi mọi cái cũ. Việc nước hóa thành rượu trong bữa tiệc cưới ở làng quê thành thử tượng trưng cho việc Luật cũ chuyển qua Luật mới, Giao ước mới đậm đà như rượu thay thế cho Giao ước cũ là nước đã nên nhạt phèo.

Các chương tiếp theo trong Gio-an sẽ lần lượt cho thấy các kiểu thay cũ đổi mới như thế : Thân thể Đấng Phục sinh sẽ là Đền thờ thay thế đền thờ Giê-ru-sa-lem bằng đá (x. Ga 2) ; việc sinh lại bởi ơn trên tiếp sau việc sinh ra từ lòng mẹ (x. Ga 3) ; việc thờ phượng trong Thần Khí và Sự Thật thế chỗ việc thờ phượng ở Giê-ru-sa-lem hay ở Ga-ri-dim (x. Ga 4) ; Bánh Hằng Sống thay cho man-na thời Xuất hành (x. Ga 6) ; Mục tử nhân lành thay thế các mục tử giả hiệu (x. Ga 10) ; Sự Sống Thật tiếp sau sự sống tự nhiên (x. Ga 11) ; Điều răn mới là phải yêu thương đến hiến mạng như Thầy (x. Ga 13).

Tâm điểm của bản văn hôm nay do đó là chính Đức Ki-tô, nhưng Đức Ma-ri-a cũng ở bên cạnh Người với niềm tin trong suốt và toàn diện, xác tín rằng cần “làm theo tất cả những gì Người bảo.” Và “bà” sẽ lại xuất hiện đúng vào “giờ” của Người, dưới chân thập giá, sẵn sàng đón nhận lời cuối cùng của Con, sẵn sàng “làm theo những gì Người bảo” trong giây phút quyết định đối với tương lai của mình, tương lai làm Mẹ Giáo hội. Chính qua đó mà Đức Ma-ri-a trở nên gương mẫu của tín hữu đích thật, như điệp ca tuyệt vời của phụng vụ Anh giáo sau đây : “Hỡi Đấng mang Lời vĩnh cửu, nghe Lời vĩnh cửu, thực hành Lời vĩnh cửu, Bà là người trung tín và xót thương, hãy ngợi khen Chúa đi nào !”

Vậy là cuối cùng, Vương quốc mới, Đấng cứu độ chung quyết đã xuất hiện. Hết rồi những nghi thức bất toàn, những tập quán cũ kỹ, những lề luật trói buộc. Đức Ki-tô đã mang đến hân hoan, tự do, an bình. Vậy tại sao có biết bao Ki-tô hữu nhiều nơi vẫn bằng lòng với ách độc tài toàn trị, với sự hạn chế nhân quyền, trói buộc tự do, xuyên tạc sự thật, với chính sách khống chế tôn giáo ? Hãy noi gương người tín hữu Rumani sau đây :

Lúc ấy, trong một buổi học tập chính trị, tay diễn giả vô thần lên tiếng thóa mạ Đức Ki-tô, gọi Người là tên bịp bợm. Ông ta nói : “Phép lạ Ca-na chỉ là trò ảo thuật của Giê-su. Tôi có thể làm lại việc ông đã làm !” Thế rồi diễn giả huơ huơ tay trên một ly nước để sẵn trên bàn. Đang lúc ai nấy chăm chú nhìn vào bàn tay của ông, thì một viên hóa chất bé tí từ trong tay áo ông rơi nhẹ vào ly và nước hóa nên đỏ thẫm. Vài tiếng vỗ tay lẹt đẹt. Diễn giả đắc chí : “Thấy chưa, ông Giê-su cũng chỉ lợi dụng lúc người ta sơ ý để bỏ một chất gì đó vào các lu nước mà thôi !” Bấy giờ một Ki-tô hữu lên tiếng : “Xin ông vui lòng uống ly rượu đó !” – “Xin lỗi, Không thể được ! Đây là chất độc !” Người tín hữu hiền lành liền mạnh dạn nói : “Với rượu của Người, Đức Giê-su đã cho chúng tôi hai ngàn năm hoan lạc ! Còn với rượu các ông, các ông đã đầu độc chúng tôi !”

Lm. Phêrô Phan Văn Lợi, TGP Huế