Anh chị em thân mến,

Được quy tụ nơi đây trong Năm thánh là một hồng ân mà chúng ta không được xem là điều đương nhiên. Trước hết, đó là một ân ban, bởi vì việc hành hương, đi qua Cửa Thánh, nhắc nhở chúng ta rằng đời sống chỉ có ý nghĩa khi được sống như một cuộc hành trình, khi biết tiến bước không ngừng, nghĩa là, khi biết làm cho thực tại phục sinh hiện hữu.

Vì thế, thật tốt lành khi suy niệm về việc Giáo hội hằng ghi nhớ rằng, qua việc cử hành Năm thánh trong những tháng này, chính Giáo hội luôn cần được hoán cải và phải luôn tiến bước theo sau Chúa Giêsu, không do dự và không sa vào cám dỗ muốn đi trước Người. Thật vậy, Giáo hội luôn cần phục sinh, nghĩa là sự “vượt qua” từ kiếp nô lệ đến tự do, từ sự chết đến sự sống. Tôi ước mong rằng tất cả anh chị em đều cảm nghiệm trong tâm hồn mình hồng ân của niềm hy vọng này, và Năm thánh trở thành một cơ hội để cuộc đời anh chị em được bắt đầu lại.

Hôm nay, tôi muốn ngỏ lời với anh chị em là những người thuộc các cơ sở đại học, và tất cả những ai chuyên tâm trong việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu theo nhiều cách khác nhau. Ân sủng nào có thể chạm đến đời sống của một sinh viên, một nhà nghiên cứu, một học giả? Tôi xin thưa rằng: đó là ân sủng của một tầm nhìn bao quát, một nhãn quan có khả năng nắm bắt được chân trời, biết nhìn xa hơn những gì trước mắt.

Chúng ta có thể thấy sự thấu suốt này trong đoạn Tin Mừng vừa được công bố (Lc 13:10-17), kể lại hình ảnh một người phụ nữ bị còng lưng, và sau khi được Chúa Giêsu chữa lành, bà đã đón nhận được ân huệ của một tầm nhìn mới, một tầm nhìn rộng lớn hơn. Tình trạng của người phụ nữ này tương tự như tình trạng vô tri, vốn thường gắn liền với sự khép kín vào bản thân và thiếu thao thức thiêng liêng cũng như trí tuệ. Người đàn bà bị còng lưng, quay vào chính mình, do đó không thể nhìn xa hơn bản thân. Khi con người không có khả năng nhìn vượt ra khỏi chính mình, vượt ra khỏi những kinh nghiệm, ý tưởng và niềm tin của riêng mình, vượt ra ngoài những dự án của bản thân, thì họ sẽ vẫn mãi bị giam hãm, làm nô lệ và mất khả năng đưa ra những phán đoán trưởng thành.

Cũng như người phụ nữ bị còng lưng trong Tin Mừng, chúng ta luôn có nguy cơ bị giam hãm trong cái nhìn quy ngã của bản thân. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều điều thực sự quan trọng trong cuộc sống – chúng ta có thể nói đó là những điều căn bản nhất – không xuất phát từ chính chúng ta; chúng ta đón nhận chúng từ người khác. Những điều đó đến với chúng ta qua các thầy cô giáo, qua các cuộc gặp gỡ và những kinh nghiệm sống của chúng ta. Đây là một kinh nghiệm ân sủng, vì nó chữa lành chúng ta khỏi tính tự quy chiếu. Đây là một sự chữa lành đích thực, cũng như đối với người phụ nữ trong Tin Mừng, cho phép chúng ta một lần nữa đứng thẳng trước cuộc sống và thực tại của nó, và nhìn chúng bằng một cái nhìn rộng lớn hơn. Người phụ nữ được chữa lành đã nhận được niềm hy vọng, vì cuối cùng bà có thể ngước mắt lên và nhìn thấy điều khác biệt, có thể nhìn thấy theo một cách thức mới. Điều này đặc biệt xảy ra khi chúng ta gặp gỡ Đức Kitô trong đời mình, khi chúng ta mở lòng trước một chân lý có khả năng biến đổi cuộc sống, giúp chúng ta bước ra khỏi bản thân mình và giải thoát chúng ta khỏi sự tự quy chiếu.

Những ai học tập được “nâng lên”, mở rộng các chân trời và tầm nhìn của mình, để khôi phục khả năng không cúi nhìn xuống, nhưng có khả năng nhìn lên: hướng về Thiên Chúa, về tha nhân và mầu nhiệm của cuộc sống. Thật vậy, ân sủng của một sinh viên, một nhà nghiên cứu hay học giả có nghĩa là biết đón nhận một tầm nhìn rộng lớn có thể nhìn xa; không đơn giản hóa các vấn đề cũng không sợ hãi trước các câu hỏi; vượt qua sự lười biếng trí tuệ, và nhờ đó đánh bại sự sa sút thiêng liêng. Chúng ta hãy luôn nhớ rằng đời sống thiêng liêng cần đến nhãn quan này, một nhãn quan mà việc nghiên cứu thần học, triết học và các ngành học khác góp phần một cách đặc biệt. Ngày nay, chúng ta đã trở thành chuyên gia về những chi tiết nhỏ nhất của thực tại, nhưng lại đánh mất khả năng có một tầm nhìn bao quát tích hợp mọi sự trong một ý nghĩa sâu sắc hơn và lớn lao hơn. Tuy nhiên, kinh nghiệm Kitô giáo muốn dạy chúng ta nhìn cuộc sống và thực tại bằng một cái nhìn hợp nhất, có khả năng bao quát mọi sự, đồng thời bác bỏ những cách suy nghĩ phiến diện.

Vì thế, tôi thúc giục anh chị em, các sinh viên, các nhà nghiên cứu và các thầy cô, đừng quên rằng Giáo hội cần cái nhìn hợp nhất này cho cả hiện tại và tương lai. Chúng ta có thể nhìn vào tấm gương của các vị như Thánh Augustinô, Thánh Tôma Aquinô, Thánh Têrêsa Avila, Thánh Edith Stein và nhiều vị khác, những người đã biết cách kết hợp nghiên cứu vào đời sống và hành trình thiêng liêng của mình. Tương tự như vậy, chúng ta được kêu gọi tiến bước trong các nỗ lực về trí tuệ và trong việc tìm kiếm chân lý mà không tách rời chúng khỏi đời sống. Điều quan trọng là nuôi dưỡng sự hợp nhất này để những gì xảy ra trong các giảng đường đại học và các môi trường giáo dục thuộc mọi cấp không chỉ là một bài tập lý thuyết trừu tượng. Nhưng nó có khả năng biến đổi cuộc sống, và giúp chúng ta đào sâu mối tương quan với Đức Kitô, hiểu biết hơn về mầu nhiệm Giáo hội, và làm cho chúng ta trở thành những chứng nhân can đảm của Tin Mừng trong xã hội.

Các bạn rất thân mến, việc học tập, nghiên cứu và giảng dạy luôn mang một trách nhiệm giáo dục quan trọng, và tôi mong muốn khích lệ các đại học hãy đón nhận tiếng gọi này với niềm đam mê và cam kết. Giáo dục tương tự như phép lạ được kể trong bài Tin Mừng hôm nay, vì hoạt động của nhà giáo dục là nâng con người lên, giúp họ trở thành chính mình và có khả năng phát triển lương tâm được soi sáng cùng với khả năng tư duy phản biện. Các đại học Giáo hoàng phải có khả năng tiếp tục “hoạt động” này của Chúa Giêsu. Đó là một hành động yêu thương đích thực, vì nó là một hình thức bác ái được thể hiện qua việc học tập, tri thức và sự tìm kiếm chân thành những gì là thật và xứng đáng để sống vì nó. Làm no thỏa cơn đói khát chân lý và ý nghĩa là một nhiệm vụ trọng yếu, vì nếu không có chúng, chúng ta sẽ rơi vào sự trống rỗng và thậm chí buông xuôi trước tuyệt vọng.

Trên hành trình này, mỗi người trong chúng ta cũng có thể tái khám phá hồng ân cao cả nhất, đó là biết rằng chúng ta không đơn độc, nhưng chúng ta thuộc về ai đó, như Thánh Tông đồ Phaolô khẳng định: “Quả vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa. Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: ‘Áp-ba! Cha ơi!’” (Rm 8:14-15). Thật vậy, những gì chúng ta nhận được trong khi tìm kiếm chân lý và dành trọn tâm trí cho việc học tập giúp chúng ta khám phá rằng chúng ta không phải là những thụ tạo bị ném vào thế giới một cách ngẫu nhiên, nhưng chúng ta thuộc về một Đấng yêu thương chúng ta và có một chương trình yêu thương cho cuộc đời chúng ta.

Anh chị em thân mến, cùng với anh chị em, tôi cầu xin Chúa ban cho kinh nghiệm học tập và nghiên cứu trong những năm tháng đại học giúp anh chị em có thể đạt được tầm nhìn mới mẻ này. Xin cho hành trình học thuật của anh chị em giúp anh chị em biết cách nói, thuật lại, đào sâu và loan báo những lý do của niềm hy vọng trong lòng chúng ta (x. 1 Pr 3:15). Xin cho đại học rèn luyện anh chị em trở nên những con người không bao giờ khép kín trong bản thân, nhưng luôn đứng thẳng, có khả năng mang niềm vui và sự an ủi của Tin Mừng đến bất cứ nơi nào anh chị em tới.

Xin Đức Trinh nữ Maria, Tòa Đấng Khôn ngoan, đồng hành và chuyển cầu cho anh chị em.