LỜI TỰA
Kính thưa quý độc giả,
Trong tình yêu quan phòng của Thiên Chúa, với phép lành toà thánh của Đức Thánh Cha Phanxicô, ngày 9/8/2024 Dòng Thánh Tâm Huế đã long trọng cử hành nghi thức và Thánh Lễ tạ ơn khai mạc Năm Thánh bách chu niên (1925-2025)
Một trăm năm hình thành và phát triển, Dòng Thánh Tâm Huế đã đi qua những bước thăng trầm cùng với Giáo hội và thời cuộc. Tất cả những năm tháng ấy cho dù ra sao và như thế nào cũng đều là hồng ân Thiên Chúa ban cách nhưng không cho Dòng. Để rồi hôm nay, sau chặng đường dù chưa thấm vào đâu so với bề dày lịch sử của Giáo hội cũng như của giáo phận. Nhưng cũng là đủ để cho từng thành viên trong Dòng cất cao lời ca tri ân trước tình yêu vô bờ bến của Thánh Tâm Chúa ngang qua Đấng Sáng Lập, quý các bậc Tiền nhân, Ân thân nhân và quý Anh đã an nghỉ.
Hòa trong tâm tình tạ ơn của Năm Thánh cùng với lời mời gọi của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II khi nói về lòng biết ơn: “Chúng ta hãy nhớ đến quá khứ với lòng biết ơn, hăng say sống giây phút hiện tại và tin tưởng nhắm đến tương lai.” Ban Đặc San Năm Thánh gửi tới quý độc giả số đầu tiên trong Tập San Năm Thánh với chủ đề: “Dấu ấn Tình Yêu”. Đây là những cảm nghiệm suy tư cùng với tâm tình yêu mến, biết ơn của thệ hệ hậu sinh với Đấng Sáng Lập,các thế hệ Cha Anh, cùng quý ân thân nhân .
Với tấm lòng biết ơn chân thành, Ban Đặc San Năm Thánh xin tri ân quý Cha, quý Tu sĩ, các em Đệ Tử, các bạn sinh viên .. đã cộng tác, âm thầm cầu nguyện và giúp đỡ chúng con thực hiện tập san này.
Mặc dù chúng con đã rất cố gắng trong việc biên tập nhưng cũng không thể tránh khỏi những thiếu sót. Chúng con rất mong nhận được sự góp ý chân thành của quý vị để số ra tiếp theo được hoàn thiện hơn.
Nguyện xin Thánh Tâm Chúa Giêsu, qua lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, thánh cả Giuse và các Thánh ban muôn phúc lành trên quý vị.
BAN ĐẶC SAN NĂM THÁNH
Kỷ niệm 100 năm thành lập Dòng Thánh Tâm Huế – Tiến Hội
Phủ Cam năm đó lẫy lừng
Có cha Allys quyết tâm lập Dòng.
Anh Em Hèn Mọn một Dòng
Ngài ra thông cáo mọi người được hay.
Trường An năm đó đổi thay
Lệnh cho Cha Cẩn xây ngay sở Dòng.
Ngọc Hồ, Phủ Cam, Kim Long…
Cùng nhau dự tiệc chung lòng dựng xây
Việc đạo đã ổn đó thây
Việc đời phải ổn mới gây được Dòng
Quan trên làm khó đủ đường
Cố Lễ phải viết đơn xin khai trường.
Bằng cấp cũng khó vô lường
Nhờ tình yêu Chúa thì đường thẳng ngay.
Ba mươi đệ tử sẵn tay
Hai lăm đệ tử được hay nhận vào.
Học hành thi cử bộn bề
Một mình cha Cẩn ra vào trông nom.
Việc ăn việc ở hửu hom
Nghề in, nghề ruộng để mong gom tiền.
Nhờ tình yêu Chúa đầu tiên
Anh Em Hèn Mọn tiến lên mỗi ngày.
Hai lăm đệ tử đầu tay
Nay thêm mười tám được hay nhận vào.
Đốc trường phải có bằng cao
Mới cho thi cử, mới trao cấp bằng.
Cha Thích được cử thay vào
Một chín hai bảy nhận Bài Sai đi.
Coi sóc dạy dỗ ân cần
Học hành thi cử thế rồi cũng xong.
Hai lăm đệ tử đầu lòng
Tám chú được chọn cho mang áo Dòng.
Mồng ba năm đó tết Rồng
Bà con tới dự bồi hồi biết bao!
Khởi đầu ắt phải khó khăn
Ơn trên ban xuống cũng không vấn đề.
Thời gian cứ thế vần trôi
Một Chín Năm Mốt (1951) mốc son trưởng thành.
Bề trên mới – người của Dòng
Từ nay tự trị, tên Dòng Thánh Tâm.
Tương lai phải tự vần xoay
Ba anh du học đã qua Pháp rồi.
Anh kia nghĩa vụ chưa rồi
Đành nên ở lại, nhưng rồi cũng xong.
Thế rồi Một Chín Bảy Lăm (1975)
Chia đôi đất nước để Dòng trắng tay.
Đồn điền, trường học chẳng may
Thuộc về Nhà Nước trông coi giữ giùm.
Chỉ còn lại nhà máy in
Cho dòng có kế sinh nhai qua ngày.
Lại nhờ ơn Chúa từng ngày
Canh tân đổi mới để Dòng hồi sinh.
Họp Tu nghị, sáng bình minh
Ephrem Công Thẩm – Bề trên Tổng quyền
Nở hoa vươn mạnh sớm ngày
Là ba linh mục: Phú, Vinh và Đàng.
Gian nan thử thách đằng đằng
Mậu Thân (1968) năm đó u uất phận người.
Đau thương mất mát bùi ngùi
Người đi kẻ ở chia ly đôi đàng.
Bảy Hai (1972) năm đó nhớ rằng
Cơ ngơi Quảng Trị đi vào tay ai?
Nhà in, trường học đổi tay
Bức tranh ảm đạm tương lai mịt mùng.
Lại đùng Một Chín Bảy Lăm (1975)
Đi vùng kinh tế mỗi người một nơi.
Đất đai trưng dụng nơi nơi
Anh em bền đỗ quyết khơi lại Dòng.
Đồng tâm, hiệp lực, đồng lòng
Dựng xây cơ nghiệp để Dòng vươn xa
Xót thương – Hiền hậu – Khiêm nhường
Ấy là Linh đạo vấn vương trong lòng.
Ơn trên ban xuống cho Dòng
Dựng xây, tu sửa trong vòng mấy năm.
Tập Viện, Đệ Tử Viện xong
Trùng tu nhà nguyện sống đời thiêng liêng.
Ơn trên thật rõ linh thiêng
Anh em tận hiến ơn riêng kêu mời.
Ai ơi tận hiến cho Người
Để đời ý nghĩa, để đời tỏa bay.
Trăm năm ơn Chúa trao tay
Giữ gìn gia sản thiêng liêng cho đời.
Khắp nơi bờ cõi đất trời
Thánh Tâm Chúa tỏa khắp trời Việt Nam.
Dòng Thánh Tâm Huế Tên và Sứ Mạng – Peter Trần Thành, CSC
Dòng Thánh Tâm Huế là tên gọi mới của “Dòng Anh Em Hèn Mọn Trái Tim Chúa Giêsu”. Khi khai sinh Dòng, Đấng Sáng Lập đã muốn cho các tu sĩ Thánh Tâm được cung hiến cho Thánh Tâm Chúa để mặc lấy những tâm tình của Ngài là lòng thương xót, sự hiền lành và khiêm nhường, ngõ hầu trở nên tông đồ của Tình yêu Thiên Chúa.
Trong ba đức tính đó, có lẽ Đấng Sáng Lập muốn đề cao hơn cả là đức tính Khiêm Nhường. Vì nhờ đức tính này, các tu sĩ Thánh Tâm mới có thể cảm nghiệm được cách sâu xa lòng thương xót của Chúa dành cho mình. Cũng nhờ đó, tu sĩ Thánh Tâm mới có thể lan toả sự hiền lành và lòng xót thương mà mình thủ đắc được nơi Thánh Tâm Chúa. Cũng có thể vì lý do đó mà tính từ “Hèn mọn” được thêm vào trong danh hiệu nguyên thuỷ của Dòng: “Dòng Anh Em Hèn Mọn Trái Tim Chúa Giêsu”.
Vậy tại sao với tên gọi mới “Dòng Thánh Tâm Huế” tính từ quan trọng “hèn mọn” không còn được đưa vào? Và tại sao từ “Thánh Tâm” được thay cho từ “Trái Tim”?
Thật ra, theo nghĩa thông thường, từ “Trái Tim” chỉ về trung tâm điểm của con người, nơi ngự trị của những tình cảm, lòng trắc ẩn và ý muốn tự do của con người… Khi liên tưởng trái tim thể lý của con người với những ý nghĩa trên, Giáo hội Công Giáo hướng các tín hữu đến việc tôn thờ “Trái Tim Chúa Giêsu” với Lòng Thương Xót, Hiền Lành và Khiêm Nhường của Ngài. Hơn nữa, Giáo hội thay từ “Trái Tim” bằng từ “Thánh Tâm” để diễn tả cách đích xác hơn rằng: Tôn thờ Thánh Tâm Chúa Giêsu là tôn thờ chính Chúa Giêsu – hiện thân của Thiên Chúa Tình Yêu và lòng thương xót của Người dành cho nhân loại.
Đàng khác, Thánh Tâm Chúa bị bao bọc bởi một vòng gai nhọn và bị một mũi tên đâm xuyên qua. Hai hình ảnh này là những chi tiết xuất hiện trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu. “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-8). Đấng Cao Sang và vô tội đã hạ mình đến mức hèn mọn, chịu đòn đến tan nát thân mình, trái tim bị đâm thâu và rướm máu, chịu xỉ báng nhuốc nha… tất cả vì tình yêu dành cho nhân loại.
Như vậy, Đức Giêsu là hiện thân của Tình Yêu Tạo dựng và Cứu độ của Thiên Chúa. Ngài đã sống với loài người bằng trọn Thánh Tâm Tình yêu của Con Thiên Chúa làm người, chia sẻ những vui buồn của kiếp nhân sinh và đổi mới cuộc sống đó bằng một tình yêu trao ban hoàn toàn cho con người và dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa Cha. Bởi vậy, ta có thể nói, nói đến “Thánh Tâm Chúa” thì không chỉ nói đến các đặc tính Lòng Thương xót, Hiền lành và Khiêm nhường, mà còn nói đến yếu tố “Tự hủy” của Con Thiên Chúa. Vì thế, trong danh hiệu mới “Dòng Thánh Tâm Huế” từ “Thánh Tâm” được thay cho từ “Trái Tim” và tính từ “Hèn mọn” không còn được đưa vào nữa.
Cũng nên nói thêm rằng, có ba lần thay đổi tên Dòng. Tên khai sinh: “Dòng Anh Em Hèn Mọn Trái Tim Chúa Giêsu” (1925). Nhưng để phù hợp với công việc truyền giáo qua việc giáo dục, trong văn thư đề ngày 24/2/1939, thánh bộ Truyền Bá Đức Tin đã cho phép “hồi chỉnh” theo yêu cầu của Dòng, nên ngày 28/4/1939, Đức cha Francois Marie Lemasle, Đại diện Tông toà Huế đã ra văn Kiện tuyên bố thành lập theo giáo luật với danh hiệu: “Dòng Sư Huynh Giáo Giảng Viên Thánh Tâm Chúa Giêsu”.
Hơn nữa, theo ước muốn của CĐ Vaticanô II, các Dòng tu cần phải canh tân để phù hợp với xu thế của thời đại. Bởi vậy, từ năm 1969 Dòng bắt tay vào việc canh tân thích nghi, nhưng do thời cuộc nước nhà, mãi tới 21/4/1980, bản Quy Luật và Hiến Chương của Dòng mới được Đức TGM Philipphe Nguyễn Kim Điền duyệt để thử nghiệm với tên gọi “Dòng Tu Sĩ Giáo Giảng Viên Thánh Tâm Chúa Giêsu”. Đến ngày 24/11/2013, Đức TGM Phanxicô Xavie Lê Văn Hồng phê chuẩn hiến pháp canh tân của Dòng với tên gọi: “Dòng Thánh Tâm Huế”.
Như vậy, mỗi lần thay đổi tên Dòng thì cũng là mỗi lần phê chuẩn Hiến Pháp của Dòng. Một đàng nhằm phù hợp với công cuộc truyền giáo qua việc giáo dục; đàng khác cũng để phù hợp với bối cảnh xã hội trong nước cũng như xu thế của thời đại mới. Tuy nhiên, ta thấy có một sự thay đổi rất lớn ở lần phê chuẩn Hiến Pháp và Nội Quy của Dòng năm 2013, vì trong bản luật được phê chuẩn lần này, Dòng chính thức được nâng lên, từ Dòng giáo dân lên Dòng giáo sĩ. Đây là một bước ngoặc, một nét son đánh dấu sự phát triển lớn mạnh của Dòng… Bởi vì việc chuyển đổi từ Dòng giáo dân sang Dòng giáo sĩ làm cho việc thực thi sứ mạng của Dòng đem lại hiệu quả tốt hơn, và cũng vì vậy mà Dòng ngày càng có nhiều ơn gọi hơn.
Nhưng một câu hỏi luôn được đặt ra: Liệu việc chuyển đổi từ Dòng giáo dân sang Dòng giáo sĩ có làm mất căn tính ban đầu của Dòng hay không?
Theo Giải Thích Giáo Luật của Cha Phan Tấn Thành, Dòng Đaminh Việt Nam thì việc chuyển đổi từ Dòng Giáo Dân sang Dòng Giáo Sĩ có thể làm mất căn tính ban đầu của Dòng, vì đây là một bước chuyển đổi quá lớn. Tuy vậy, đối với Dòng chúng ta thì không làm mất căn tính ban đầu, vì như đã nói ở trên, việc chuyển đổi này phù hợp với ý muốn canh tân các Dòng Tu của CĐ Vaticanô II, phù hợp với nhu cầu truyền giáo trong Tổng Giáo phận Huế trong bối cảnh ở Việt Nam cũng như xu thế của thời đại.
Đàng khác, các vị chủ chăn của Giáo phận (qua các thời kỳ) cũng luôn có ý hướng như vậy. Các ngài thường thúc dục các vị bề trên soạn thảo Hiến Pháp nhằm canh tân Dòng theo ý hướng đó. Hơn nữa, Điều 80 của Hiến Pháp Dòng Thánh Tâm Huế cũng nêu rõ: “Tu sĩ của Dòng lãnh chức thánh là để phục vụ sứ mạng của Dòng.” Bởi vậy, với những ý nghĩa trên, chúng ta khẳng định, việc chuyển đổi từ Dòng giáo dân sang Dòng giáo sĩ không những không làm mất căn tính của Dòng, nhưng còn có khả năng để phục vụ tốt hơn cho sứ mạng ban đầu mà Đức Cha Tổ Phụ đã nhận được từ Thiên Chúa và truyền lại cho chúng ta.
Tình Ca Tri Ân – Angelo Tran
Sống trên đời, có lẽ bất kể ai cũng từng ít là một lần cất tiếng “cảm ơn”. Cảm ơn Trời đã cho ta sự sống, cảm ơn đời đã cho ta những điều thú vị và bất ngờ, cảm ơn người đã cho ta cảm nếm những tình thương: là trái tim rộng mở, là ánh nhìn thân thiện, là đôi tay quảng đại, là đôi chân không biết mệt mỏi rong ruổi khắp đó đây để loan truyền tình Chúa và tình người.
Hôm nay, khi nhìn lại hành trình cuộc đời mình, tôi cũng muốn dừng một chút, lặng một phút để tưởng nhớ và tri ân Đức Cha E. M. Joseph Allys – Đấng Sáng Lập Dòng Thánh Tâm Huế, người cha mà tôi rất trân trọng và quý mến. Dẫu rằng tôi không có cơ duyên sống cùng thời với ngài và lại càng không có cơ duyên được kể vào số những người con tinh thần của ngài nơi hội dòng mà ngài sáng lập. Nhưng tôi cũng được gọi như có mối dây tinh thần với ngài trong nhịp đập của Thánh Tâm Chúa và trái tim nhân ái của Đức Nữ Trinh Maria. Ái mộ Đức Cha Allys, tôi cũng lấy những việc làm và gương sáng của ngài làm hành trang cho đời dâng hiến của mình.
SAY MÊ KINH MÂN CÔI
Tôn thờ Thiên Chúa và yêu mến Đức Trinh Nữ Maria là điểm nhấn thánh thiêng trong cuộc đời của Đức Cha. Mường tượng hình ảnh ngài cầm tràng chuỗi trên tay, tâm trí hướng về suy gẫm các mầu nhiệm cuộc đời Đức Giêsu qua kinh Mân Côi, tôi chắc lẽ đó là niềm an ủi hạnh phúc vô biên của ngài ngay khi còn niên thiếu và cả hành trình sống đời mục tử của ngài. Bằng chứng là khi đảm nhận sứ vụ chăm sóc giáo phận Huế, Đức Cha đã không ngừng kêu gọi đoàn con chạy đến bên Mẹ và tổ chức các cuộc đại hội bên Mẹ Lavang để ca khen chúc vinh Mẹ cùng nài xin ơn Mẹ cho mỗi người.
SỰ HY SINH TỪ BỎ
Là một người con của vùng đất văn minh lại là linh mục đầy tương lai và triển vọng, nhưng Đức Cha Allys đã quyết định từ bỏ mọi sự: cha mẹ, quê hương, sự an bình sung sướng đầy đủ để cất bước đến vùng đất truyền giáo nghèo nàn, nguy hiểm. Sự hy sinh và bước chân truyền giáo đầy thao thức của Cha như một ngọn sáng góp phần làm bừng cháy ngọn lửa đức tin của các giáo hữu Việt Nam trong những năm khó khăn của thời cuộc.
TRÁI TIM NHÂN ÁI
Có thể nói Đức Cha Allys đã sống cuộc đời Kitô hữu và đặc biệt là sứ vụ mục tử của mình cách sâu sắc với lời dạy của Đức Giêsu yêu mến Thiên Chúa trên hết và yêu tha nhân như chính mình. Vì lẽ đó mà ngài không quản ngại bất kể khó khăn nào của vùng đất An Nam như ngôn ngữ, khí hậu, văn hoá, ẩm thực để chỉ một ý hướng duy nhất là sống vì Chúa và vì tha nhân.
THAO THỨC KHÔNG NGUÔI
Khỏi phải bàn cho nhận định này bởi nhìn vào những trang sử của giáo phận Huế và qua những lưu bút của hai hội dòng mà ngài sáng lập, chúng ta có thể thấy rõ ràng những thao thức cho người trẻ, cho sứ vụ truyền giáo của ngài. Và hiện thời, những thao thức đó của ngài vẫn đang được duy trì, kết nối, phát triển khắp đó đây.
YÊU MẾN CÁC LINH HỒN
Phải là người có lòng đạo đức thánh thiện và phải là người có đầy tràn tinh thần hăng say nhiệt huyết sứ vụ lắm thì ngài mới luôn ưu tư trăn trở: “Cha yêu mến các linh hồn, ngày nào đứng trước tòa Chúa, Cha sợ nhất là Cha chưa yêu mến các linh hồn cho đủ.”
Thưa Đức Cha khả kính, một vài suy tư và cảm nhận của con chắc chắn không mang đến vinh hoa lợi lộc gì cho Đức Cha lại càng không điểm sắc gì cho cuộc đời của ngài. Nhưng từ trái tim, con muốn nói những cảm nhận của con thành lời để tri ân ngài. Bởi khi đọc về tiểu sử của ngài con muốn bắt chước những nhân đức nơi ngài mà con thấy mình còn non yếu. Nhờ đó, con ao ước được sống đời tu cách nhiệt tâm và triệt để như ngài hầu cho Nước Chúa được rạng rỡ và vinh quang.
NHỚ VỀ CHA VỊ SỨ GIẢ CỦA TÌNH YÊU VÀ NIỀM TIN
Fx. Nguyễn Trung Thành, CSC
“Đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo tin mừng” (Rm 10, 15). Lời Kinh Thánh ấy vang vọng trong tim con mỗi lần nghĩ về Cha – người đã chọn rời xa quê hương, mang Tin Mừng đến vùng đất Việt xa lạ, đặc biệt nơi mảnh đất xứ Huế thân thương này. Hình bóng Cha như in sâu trong ký ức con, hiện lên mỗi khi lòng con trĩu nặng nỗi nhớ quê hương.
Trời chiều Bretagne năm nào hẳn buồn man mác khi tiễn Cha đi. Con hình dung được ánh mắt lo âu và những giọt lệ thầm của những người thân đứng nhìn theo bóng dáng Cha khuất dần sau ngọn sóng. Cha bước đi mà chẳng hề ngoảnh lại, như quyết tâm gửi trọn trái tim mình vào mảnh đất mới. Và quả thật, như hình ảnh của tổ phụ Apraham ngày xưa, con chân nhận nơi Cha sự mạnh mẽ, can đảm của người trai trẻ khi tuổi đời đôi mươi đã dám cất bước lên đường cho sứ vụ mở rộng Nước Chúa. Khi nhìn vào hình ảnh này của Cha, con chợt nhớ đến câu thơ của tác giả Nguyễn Đình Thi:
“Người ra đi đầu không ngoảnh lại,
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
1. Cha Ra Đi Không Ngoảnh Lại
Cuộc hành trình ấy không chỉ là chuyến đi xa về thể xác, mà còn là hành trình tinh thần không quay đầu. Cha đã từ giã gia đình, quê nhà, không một lần trở lại dù thời gian phục vụ kéo dài 61 năm. Con biết rằng đó không phải sự chọn lựa dễ dàng nhưng Cha vẫn đi, và từ giây phút ấy, đất Việt đã trở thành quê hương, mảnh đất Huế trở thành mái nhà thân thương của Cha.
Những ngày đầu hẳn không dễ dàng. Khí hậu khác biệt, ngôn ngữ xa lạ, văn hóa mới mẻ – tất cả đều là thử thách. Thế nhưng, chưa bao giờ Cha nản lòng. Mỗi ngày là một bước đi mới trong hành trình phục vụ theo sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần. Mỗi khó khăn chỉ khiến ý chí trong Cha thêm kiên định, lòng yêu thương thêm đong đầy.
Con nhớ về Cha như người đã chấp nhận từ bỏ những bình yên giản dị nơi quê nhà để đắm mình vào hành trình đầy cam go. Giữa bao thử thách, Cha vẫn luôn đi tới, không một lần chùn bước. Hình ảnh ấy đẹp biết bao – một người mục tử mang trong tim tình yêu lớn lao với Thiên Chúa và con người. Đúng như châm ngôn đời Giám mục mà Cha đã chọn: “Diligo omnes”
2. Sau Lưng Cha – Những Kỷ Niệm Xa Mờ
Khi nghĩ về Cha, con thấy bóng dáng người thanh niên trẻ với đôi mắt sáng ngời hy vọng, bước qua mọi tiếc nuối để tiến về phía trước. Cha đã để lại sau lưng những ký ức êm đềm, những chiều quê yên bình, những kỷ niệm thân thương nơi Pháp quốc. Nhưng con biết rằng, dù xa cách, Cha không bao giờ quên những gì mình đã để lại. Những chiếc lá rơi trên thềm nắng ấy như những dấu lặng trong bản nhạc cuộc đời Cha – gợi lên nỗi buồn nhưng cũng là minh chứng cho sự hy sinh thầm lặng. Từ đó, tình yêu và lòng kiên trung trong Cha càng được bồi đắp, vững vàng trước mọi khó khăn nơi mảnh đất Kinh thành xứ Huế này.
Cha không chỉ mang Tin Mừng đến cho người dân, mà còn mang theo trái tim bao dung, yêu thương vô điều kiện. Dù đứng trước những khác biệt hay thử thách, Cha luôn giữ trong tim tình yêu lớn lao dành cho mọi người – không chỉ những ai đã tin vào Chúa, mà cả những người chưa biết đến Ngài.
3. Cha Yêu Thương Mọi Người Như Con Của Mình
Mỗi lần nghe ai đó kể về Cha, con lại nhớ đến khẩu hiệu Giám mục của Cha: “Tôi yêu mến mọi người.” Đó không chỉ là lời nói, mà là cách Cha sống và trao ban chính mình. Cha yêu tất cả – từ những người giáo dân đến những mảnh đời nghèo khổ chưa một lần biết đến Tin Mừng.
Những ngôi trường, nhà thờ, các công trình xã hội, và đặc biệt nơi hai đứa con tinh thần là Hai Hội Dòng mà Cha xây dựng là minh chứng cho tình yêu ấy. Cha không chỉ lo cho linh hồn mà còn chăm sóc cả đời sống thể xác của người dân, giúp họ có một cuộc sống tốt hơn. Tình yêu của Cha là tình yêu không biên giới, là sự dấn thân không hề toan tính.
4. Cuộc Đời Cha Là Một Cuộc Chiến Đầy Yêu Thương
Cuộc sống của Cha nơi đất Việt không phải lúc nào cũng bình yên. Cha đã đối mặt với bệnh tật, tuổi già và cả những gian truân của công cuộc truyền giáo. Nhưng với Cha, mọi gian khó không phải là điều ngăn cản, mà là cơ hội để Cha thêm kiên định.
Cha từng nói: “Con sẽ làm mọi điều có thể để giáo phận không phải chịu thiệt hại bởi nhược điểm của con.” Lời nói ấy như khắc sâu trong tim con – một lời hứa đầy khiêm nhường và trách nhiệm. Cha không bao giờ để sự yếu đuối làm cản trở bước đường phụng sự, mà luôn coi mọi thử thách là dịp để tiến gần hơn đến Thiên Chúa và tha nhân.
5. Khiêm Nhường Trong Mọi Thành Công
Sự khiêm nhường của Cha là điều con luôn kính trọng. Cha không bao giờ tự nhận công lao về mình. Với Cha, tất cả những gì Cha làm được đều nhờ ơn Chúa. Ngài là người đã hướng dẫn và nâng đỡ Cha trong mỗi bước đường.
Ngay cả những ngày cuối đời, Cha cũng chọn sự giản dị. Cha không muốn đám tang của mình trở nên trọng thể, vì với Cha, cuộc đời này là để phục vụ chứ không phải để vinh danh. Cha sống như thế và ra đi cũng như thế – lặng lẽ, khiêm nhường, nhưng để lại dấu ấn không phai.
Cha đã sống một cuộc đời ý nghĩa, một cuộc đời mà mọi đau khổ chỉ là những bước đệm để đến gần hơn với Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Cuộc đời Cha không chỉ là câu chuyện của sự chịu đựng và gian truân, mà còn là hành trình của tình yêu, của hy vọng và niềm tin. Cuộc đời và hình ảnh của Cha là lực đẩy, là chỗ dựa giúp con vững bước hơn trong đời dâng hiến trong mái nhà Thánh Tâm này.
6. Khép Lại Hành Trình Với Lòng Tri Ân
Cha à, khi nhớ về Cha, lòng con ngập tràn cảm xúc. Con thấy trong từng kỷ niệm là bóng dáng một người Cha yêu thương, sẵn sàng hy sinh mọi thứ vì sứ vụ và vì những người con nơi đất Việt. Những chiếc lá rơi trên thềm nắng ấy như lời nhắc nhở về một cuộc đời trọn vẹn yêu thương và phục vụ.
Con tin rằng di sản của Cha sẽ mãi mãi sống trong lòng những người con Việt Nam và nơi trái tim của những người con tinh thần mà Cha đã sinh ra. Cuộc đời Cha là tấm gương sáng, là nguồn cảm hứng cho con, cũng như cho các thế hệ sau tiếp tục hành trình loan báo Tin Mừng. Những dấu ấn Cha để lại sẽ mãi là kỷ niệm đẹp trong lòng con và tất cả những ai từng được Cha yêu thương và dẫn dắt.
Con cảm ơn Cha và mãi nhớ về Cha.
VIẾT CHO ANH NGƯỜI TRUYỀN GIÁO TRẺ TUỔI
Ant Nguyện, CSC
Anh thân mến!
Khi em viết lên những dòng tâm sự này anh chẳng bao giờ đọc được nhưng em vẫn muốn viết ra, viết để cho mọi người thấy được rằng anh là một con người luôn khao khát, cháy bỏng và nhiệt huyết với lý tưởng mà anh đã lựa chọn, viết để tỏ lòng mến phục của em dành cho anh. Có lẽ trong cuộc đời của mỗi con người ai cũng luôn mang khao khát nơi mình là làm được một điều gì đó, không phải để trở nên nổi tiếng nhưng là làm cho cuộc đời người khác nhận ra được giá trị của cuộc sống. Bởi vậy, mà anh Allys đã khao khát cho mình một lý tưởng là trở nên một nhà truyền giáo như những vị thừa sai khác, bất chấp những khó khăn, thời thế và tuổi thanh xuân để trở nên một sứ giả của tình yêu Thiên Chúa.
Anh Eugène Marie Joseph Allys Lý sinh ngày 12/2/1852 tại nước Pháp, trong một gia đình đạo đức có 8 người con, trong số đó có hai linh mục và một nữ tu. Với ước muốn dâng mình cho Chúa nên anh đã vào học chủng viện tại Giáo phận Rénnes. Những năm tháng học tại đây, lý tưởng truyền giáo vẫn luôn bừng cháy nơi tâm hồn anh nên anh đã xin chuyển sang học chủng viện Thừa Sai Hải Ngoại Paris. Đến ngày 10/10/1875, anh được thụ phong linh mục, một ngày hạnh phúc trong đời anh, ngày mà anh chết đi con người cũ của mình để trở nên nghĩa thiết với Đức Kitô như lời Thánh Phaolô nhắn nhủ trong thư Galat: “Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20).
Anh cảm nghiệm được tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mình và lý tưởng anh ấp ủ bao lâu. Bởi vậy, ngày 16/12/1875 chỉ sau hai tháng đón nhận thánh chức linh mục, anh đã vội vã từ giã gia đình, bạn bè và người thân, tạm biệt quê hương đầy kỷ niệm lên đường sang Việt Nam truyền giáo. Có lẽ, trong tâm trí anh vẫn luôn yêu thương và nhớ mãi những kỷ niệm đẹp yêu dấu nơi quê hương thân thương mà anh được sinh ra và lớn lên. Đến đây lời bài hát “Quê hương” của nhạc sĩ Giáp Văn Thạch như một lần nữa làm em liên tưởng đến quê hương mà anh đã từng gắn bó:
Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Quê hương là con diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng
Quê hương là con đò nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông.
Không nhớ nhung và lưu luyến sao được khi mà anh sang truyền giáo ở Việt Nam khi tuổi đời còn rất trẻ, 23 tuổi một cái tuổi đầy ước mơ và hoài bão, một cái tuổi tràn đầy năng lượng, một cái tuổi vẫn còn đó non yếu về kinh nghiệm, nhất là với một văn hóa và phong tục khác xa quê hương anh. Thế nhưng, anh không sợ, anh vẫn vui tươi lên đường bất chấp khó khăn, bởi anh luôn được thôi thúc bởi lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10,2).
Đến Huế, anh được gửi tới Viện Dục Anh Kim Long để học tiếng Việt, một công việc quan trọng đầu tiên anh cần có và phải làm ngay để có thể giao tiếp, đồng hành được với người Công giáo Việt Nam. Thiết nghĩ, công việc đó cần nhiều thời gian và đòi hỏi sự kiên trì nhưng với tuổi trẻ và tài năng sẵn có, nên dường như điều đó không làm khó anh được. Chỉ trong một thời gian ngắn anh đã có thể học được, không những chữ viết mà anh còn nhanh chóng bắt kịp được phong tục và văn hóa kinh đô Huế, một phong tục “chẳng nơi nào có được”.
Năm 1881, sau một thời gian ngắn làm phó xứ Dương Sơn, anh được Đức Cha Lộc bổ nhiệm làm cha sở nơi này. Tuy nhiên, có một điều phải nói ở đây là anh được bổ nhiệm làm cha sở trong tình hình bắt đạo gay gắt, họ đã giết chết rất nhiều giáo dân vùng phụ cận Huế. Giáo xứ nơi anh coi sóc cũng bị đe dọa. Thế nhưng, anh không sợ mà vẫn can đảm ở lại để nâng đỡ, an ủi tinh thần các tín hữu, hẳn là anh đã thấm nhuần lời dạy của Thầy Giêsu: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” (Mt 10, 28). Tinh thần quả cảm đó của anh đã để lại trong lòng mọi người lương cũng như giáo hình ảnh đẹp của một vị mục tử tốt lành, hết mình vì đoàn chiên.
Trong tâm tưởng của anh, hai từ truyền giáo đã được in sâu từ khi anh còn là một cậu bé. Chính nơi gia đình đạo đức đã hun đúc lòng mến, sự thánh thiện và lòng can đảm truyền giáo nơi anh. Anh cũng nhận ra rằng, cuộc sống của người truyền giáo đầy gian nan, cam go, đòi anh phải có một tấm lòng nhiệt thành và một ý chí kiên cường. Chiêm ngắm Chúa Giêsu Thánh Thể, cầu nguyện với Chúa mỗi ngày chính là sức mạnh để anh vượt qua những thử thách và gian nan.
Năm 1885, tình hình bắt đạo tiếp tục gia tăng tại Quảng Trị, nhiều nhà thờ bị đốt, nhiều giáo dân bị thiêu sống. Trong tình thế đó, Đức Cha Lộc cử anh làm Tuyên Úy Quân đội Pháp, cùng đi với phái đoàn Pháp ra Quảng Trị, anh đã chứng kiến nhiều nhà thờ bị thiêu rụi, nhiều giáo dân bị chém, bị thiêu sống… con tim anh như thắt lại, đôi mắt anh cay nồng và anh đã khóc,… khóc cho tình yêu, khóc cho mảnh đất Huế thương này. Anh lê những bước chân nặng trĩu tưởng chừng như không muốn bước nữa, không phải vì kiệt sức mà vì anh đau buồn cho những phận người bé nhỏ, những con chiên vất vưởng vì thiếu chủ chăn…
“Truyền giáo là hăng hái ra đi đến với mọi người, nam cũng như nữ, để mời gọi họ gặp gỡ Thiên Chúa và sống hiệp thông với Người. Không mỏi mệt! Là Đấng yêu thương tuyệt vời và giàu lòng thương xót, Thiên Chúa không ngừng ra đi để gặp gỡ mọi người, và kêu gọi họ đến hưởng hạnh phúc trong Nước của Người, ngay cả khi Người phải đối diện với sự dửng dưng và chối từ của họ. Đức Giêsu Kitô, Mục tử Nhân hậu và sứ giả của Chúa Cha, đã ra đi tìm kiếm những con chiên lạc nhà Israel và Người còn muốn đi xa hơn nữa, để đến được cả với những con chiên xa xôi nhất” (Sứ Điệp Ngày Thế Giới Truyền Giáo năm 2024 của ĐGH Phanxicô). Anh cảm nghiệm tình yêu thương mà Thiên Chúa luôn quan phòng, nâng đỡ từng bước trong cuộc đời khiến anh không thể chỉ an phận với những gì hiện tại mình đang có mà phải đem tình yêu thương đó đến với những người cần ánh sáng Tin Mừng. Bởi vậy, khi làm Giám mục anh đã chọn câu khẩu hiệu cho mình: “Diligo omnes” (Tôi thương mến mọi người) dường như để chứng minh cho tình yêu mà anh dành cho giáo phận Huế thân thương này.
Năm 1908, anh được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám mục Giáo phận Huế. Trong cương vị Giám mục và với tầm nhìn xa trông rộng về các nhu cầu của vùng truyền giáo, anh đã bảo trợ việc thiết lập Dòng Kín Carmel (1909) và cho phép thành lập Đan viện Xitô Phước Sơn (1918)… nhưng có một điều làm anh suy tư, canh cánh trong lòng là làm thế nào để lớp trẻ cần được giáo dục về đức tin và thăng tiến về văn hóa.
Dưới bàn tay quan phòng của Thiên Chúa và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, anh thấy cần đáp ứng nhu cầu cần thiết của giáo phận trước cánh đồng truyền giáo đang trên đà phát triển. Anh đã mạnh dạn nói lên tiếng nói và ước nguyện của mình bất chấp sự phản đối của những người không ủng hộ. Anh đã thành lập Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm (1920) và Dòng Sư Huynh Giáo Giảng Viên Thánh Tâm Chúa Giêsu (1925) (sau này đổi thành Dòng Thánh Tâm Huế) với ước mong mọi trẻ em, cách riêng là những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, đều được đi học, được tiếp cận với tri thức của nhân loại và Giáo lý Kitô Giáo. Tất cả điều đó nói lên tinh thần và ước nguyện của anh, một con người luôn khao khát và hết mình cho lý tưởng truyền giáo. Tinh thần này anh đã học được từ Thầy Giêsu của mình là hăng say ra đi đem Tin Mừng đến với muôn người. Tinh thần ấy được thể hiện qua tình yêu thương, sự hy sinh và lòng nhiệt huyết của anh dành cho mảnh đất Huế thân thương này.
Nơi anh cũng toát lên một con người nội tâm, bằng chứng là qua việc cầu nguyện luôn kết hợp mật thiết với Chúa. Anh cầu nguyện lâu giờ trước Thánh Thể, nhất là thời gian hưu trí, mắt bị mù lòa, anh đã dành nhiều thời gian của mình trong nhà thờ để chầu Thánh Thể. Anh tin tưởng vào tình yêu quan phòng của Chúa, hoạt động của Chúa Thánh Thần và Đức Mẹ nên anh đã không mỏi mệt khi hành động như vậy. Anh xác tín rằng không chỉ rao giảng Lời Chúa mà còn bằng chính cuộc sống của mình, bởi vậy mà anh đã trở thành chứng nhân sống động cho Tin Mừng giữa một thế giới mà con người đang cố loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.
Tinh thần truyền giáo của anh không dừng lại ở độ tuổi xuân xanh mà ngay cả khi sức khỏe không cho phép anh vẫn toát lên được vẽ đẹp người lính can trường của Đức Kitô, bằng chứng là trên môi anh lúc nào cũng nở nụ cười.
Ngày 9/4/1936, biết mình sắp phải từ giã cuộc đời trần thế này để về với Chúa, nhưng với chút hơi tàn, anh vẫn gượng để nói lời xin lỗi với các linh mục hiện diện bên anh và anh thì thào câu: “Combien Je Vous aime tous” (Cha thương mến tất cả các con biết bao). Đó là lời cuối cùng anh muốn nói với đoàn chiên giáo phận và cũng là lý tưởng mà suốt cuộc đời cống hiến và dành hết tuổi thanh xuân của mình để sống.
Thiết nghĩ, con đường truyền giáo là một hành trình đầy ý nghĩa nhưng cũng không ít gian nan. Mỗi người chúng em là những thế hệ đi sau chắc hẳn sẽ gặp phải những khó khăn, những thử thách, thậm chí cả sự phản đối. Nhưng chúng em tin rằng, anh luôn dõi theo chúng em. Những khó khăn, thử thách là cơ hội để chúng em trưởng thành và hoàn thiện bản thân mỗi ngày, miễn là chúng em luôn giữ được ngọn lửa nhiệt huyết mà chính anh đã khơi lên nơi các bậc tiền bối. Ngọn lửa ấy còn là niềm tin và tình yêu thương để vượt qua mọi trở ngại mà hôm nay chúng em là những người hậu bối được thừa hưởng những di sản đó.
Hãy sống một cuộc đời có ý nghĩa, hãy chia sẻ tình yêu thương và niềm tin của mình với những người xung quanh, hãy đi và rao giảng Tin Mừng là điều mà thế hệ sau anh sẽ tiếp bước. Chúng em sẽ không đơn độc trên con đường này, bởi luôn có Chúa và có anh dẫn đường. Chỉ mong rằng, chúng em giữ vững lý tưởng mà anh đã nhen nhóm và truyền lại cho chúng em.
Hiến Pháp nhắc nhở chúng em từng ngày: “Thật vậy, các Tu sĩ không những mang sứ mạng rao giảng Tình yêu Chúa Cha dành cho nhân loại, được biểu lộ qua việc trao ban Con Một của Ngài cho nhân loại, nhưng còn muốn được huấn luyện từ trường học của Thánh Tâm, để được thiêu đốt với cùng ngọn lửa yêu mến Thiên Chúa và phần rỗi các linh hồn, cũng như tấm gương hiền hậu và khiêm nhường của Đấng đã đến phục vụ chứ không phải để được phục vụ.” (Hiến pháp điều 3).
Mặc dù em không được sống cùng thời với anh, nhưng những gì được ghi chép và được quý anh lớn tuổi kể lại, em cảm nhận ra rằng có một người anh tuyệt vời, đáng tự hào. vì chính anh đã truyền cảm hứng cho em sống tinh thần đó, trên hành trình bước theo ơn gọi Thánh Tâm hôm nay, để em có cơ hội nhìn lại chính mình, nhìn lại quá khứ đầy bi thương nhưng đầy tình yêu thương mà Thiên Chúa dành cho Hội Dòng như lời Đức Thánh Cha Phaxicô nói trong Tông Thư gửi những người tận hiến rằng: “Mục tiêu thứ nhất là nhìn về quá khứ với niềm tri ân. Mỗi Dòng của chúng ta đều đến từ một lịch sử phong phú của đặc sủng. Khởi đầu là tác động của Thiên Chúa, Ðấng đã kêu gọi trong Thánh Linh một số người đi theo sát gót Ðức Kitô, để chuyển dịch Tin Mừng ra một lối sống đặc thù, để đọc các dấu chỉ thời đại với cặp mắt đức tin, để đáp ứng với những nhu cầu của Giáo hội một cách sáng tạo.”
Ước gì tinh thần của anh luôn mãi là bài học và lý tưởng cho em noi theo trên hành trình bước theo Đức Kitô, nơi đó tình yêu Thánh Tâm tuôn trào để nhân loại được cứu độ. Và ước mong tinh thần của anh là động lực cho các bạn trẻ muốn dâng mình nơi ơn gọi Thánh Tâm Chúa Giêsu, để kín múc lòng thương xót, sự hiền lành và khiêm nhường trong thế giới đầy thách đố hôm nay.
Để Tất Cả Nên Một – Mai Xuân Hùng, CSC
Năm Thánh Mừng 100 năm thành lập Dòng Thánh Tâm Huế khai mở với chủ đề “Tiến bước trong Tình yêu” đã khơi gợi cho người viết nhớ về một lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cho các môn đệ: “để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con” (Ga 17,21) [1]. Bởi lẽ, nếu muốn “tiến bước” với nhau, điều được giả thiết là mọi người phải cùng “một lòng một ý” tức là “nên một” với nhau và trong nhau. Vậy, chúng ta, một lần nữa, dành đôi chút suy gẫm về lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, từ đó áp dụng vào đời sống của người Tu sĩ Thánh Tâm Huế trong thời gian sống Năm Thánh.
Khi nói đến lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cho các môn đệ về sự hiệp nhất, chúng ta không thể không tìm đến Tin Mừng Gioan, cụ thể là chương 17. Ở đây, thánh sử Gioan ghi lại lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cho các môn đệ, trong đó, Người cầu cho các môn đệ được hiệp nhất với nhau. Theo các nhà chú giải, có lẽ Chúa Giêsu đã biết trước có mối nguy cơ to lớn đang rình chờ các môn đệ và các tín hữu sau này, đấy là sự chia rẽ. (Cho nên ĐGS mới cầu nguyện …) Cụm từ “để tất cả nên một” được lặp lại 4 lần ở các câu 17,11b.21.22.23 cho thấy mối ưu tư (đó) của Chúa Giêsu khi cầu nguyện cho các môn đệ cũng là cho Giáo Hội.
Chúa Giêsu xin Chúa Cha cho các môn đệ được hoàn thiện theo mẫu gương hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con. Sự hiệp nhất giữa Cha và Con không chỉ là điển hình mà còn là nền tảng cho sự hiệp nhất giữa các môn đệ Chúa Giêsu. Bao lâu chưa hiệp nhất nên một như Chúa Cha ở trong Chúa Con và Chúa Con ở trong Chúa Cha thì Kitô hữu đừng hòng được ở trong Thiên Chúa cách trọn vẹn [2]. Chỉ nhờ sự hiệp nhất giữa các môn đệ, thế gian mới “tin rằng, Cha đã sai Con” (c. 21). Sự hiệp nhất, trong đó tình yêu, yếu tố quan trọng nhất (c. 23) sẽ là nguồn mạch và sức mạnh trợ giúp các môn đệ. Vậy, họ chỉ có thể “nên một” nếu được kết hợp chặt chẽ tối đa với Chúa Cha và Chúa Con.
Lược lại những trang sử của Dòng, thế hệ trẻ chúng ta không khỏi thành tâm khâm phục về sự đồng sức đồng lòng của các bậc tiền nhân kể từ ngày khởi sự dựng xây cơ sở vật chất cũng như công cuộc đào tạo những thế hệ sư huynh Thánh Tâm có tâm và tầm. Các bậc cha anh đã tiến bước cùng nhau thi hành sứ mạng qua việc mở trường học. Dẫu những biến cố của đất nước đã làm tổn thất nặng nề về cơ sở vật chất, con người, song các vị tiền bối vẫn một lòng một ý tiếp tục mở hoặc tiếp nhận phát triển các cơ sở khác vì sứ mạng của Dòng. Sau khi đã trải qua giai đoạn gian khó, các đấng bề trên đã sẵn sàng canh tân thích nghi với thời đại mà vẫn giữ được ý hướng ban đầu của Đấng Sáng lập [3].
Hôm nay, khi chúng ta cử hành và sống Năm Thánh, lời nguyện ước “Tiến bước trong tình yêu” [4] vẫn được các Tu sĩ Thánh Tâm thưa lên cùng Chúa mỗi ngày. Lời nguyện ước này cho thấy mỗi Tu sĩ Thánh Tâm đang song hành dấn thân hơn nữa cho sứ vụ của Dòng. Nhưng để hiệp nhất tiến bước, chúng ta phải cậy nhờ đến Thần Khí, vì như thánh Phaolô dạy: “Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước” (Gl 5,25). Bởi đó, Tu sĩ Thánh Tâm cần mở lòng ra cho tác động của Chúa Thánh Thần. Như trong ngày lễ Ngũ Tuần, Thần Khí đã làm cho các Tông Đồ ra khỏi chính mình và biến các ngài thành những người loan báo những kỳ công của Thiên Chúa mà mỗi thính giả có thể hiểu được bằng ngôn ngữ của mình. Nay chúng ta cầu khẩn với Người trong cầu nguyện qua việc gắn bó cùng Đức Kitô, chuyên cần đọc, suy gẫm Lời Chúa, các Giờ Kinh Phụng vụ, siêng năng tham dự Thánh lễ và các bí tích…. Vì không cầu nguyện thì mọi hoạt động của chúng ta có nguy cơ gặp thất bại, sứ điệp của chúng ta trao ban trở thành trống rỗng [5].
Chính Hiến Pháp điều 37 của Dòng đã dạy: “… Được Thiên Chúa quy tụ thành một gia đình thánh hiến, Tu sĩ Thánh Tâm càng muốn noi theo lối sống cộng đoàn hơn nữa và minh chứng sự hợp nhất mà Chúa Kitô thúc đẩy mỗi thành viên thực hiện”. Khi cộng đoàn được xây dựng trên tình yêu thương, sự tín nhiệm đối với nhau, cùng nhất trí đồng tâm, chúng ta mới là môn đệ đích thực của Thiên Chúa và chứng nhân cho thế giới.
Tóm lại, Năm Thánh của Dòng đang mở ra cơ hội thuận tiện giúp Tu sĩ Thánh Tâm sống lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cũng như cầu xin Người cho mỗi chúng ta luôn nên một trong Chúa và trong nhau. Ước mong việc cử hành Năm Thánh sẽ thêm động lực cho Tu sĩ Thánh Tâm nỗ lực hiện tại hóa những thao thức của các bậc tiền nhân bằng chính đời sống sứ vụ của mình. Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ hân hoan bước đi trong tin yêu, hy vọng.
Chú thích
[1] Kinh Thánh ấn bản 2011 (Nhóm phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2015, tr. 2391.
[2] X. Hoàng Minh Tuấn, Lời nguyện siêu thời gian (Đọc Tin Mừng theo Yoan, tập VII), Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, 2007, tr. 251-252.
[3] X. Dòng Thánh Tâm Huế, 100 năm hình thành, xây dựng và phát triển (1925-2025), Lưu hành nội bộ, 2024, tr. 21-22. 30-40.
[4] X. Kinh Năm Thánh Dòng Thánh Tâm Huế, 2024.
[5] X. Hiến Pháp và Nội Quy Dòng Thánh Tâm Huế, 2022, điều 41-56.
CẢM NHẬN VỀ CHA – Anthony Nhân, ĐTV
Ngày tôi vào Dòng, thấm thoát đã qua 4 năm trời, hôm đó là ngày 15 tháng 7 năm 2021. Tôi vào dòng trong hoàn cảnh toàn thế giới đang chống chọi với dịch Covid 19. Vì dịch bệnh, nên các phương tiện giao thông lúc đó hầu như ngừng hoạt động. Tôi vào Dòng bằng phương tiện cá nhân (đi nhờ xe một người). Trước khi tôi vào Dòng, tôi không biết Dòng Thánh Tâm Huế là gì, và tôi cũng không biết Đấng Sáng Lập là ai. Tôi vào dòng theo sự hướng dẫn của chú tôi, là linh mục của Dòng, vào với mục đích để học tập và tìm hiểu ơn gọi tu dòng…
Hôm tôi vào Dòng, điều làm tôi ấn tượng nhất là một bức tượng bằng đồng đặt trước nhà nguyện của Dòng, tôi không biết đó là ai. Tôi cứ suy nghĩ trong đầu mình đấy là một vị thánh Tử Đạo nào đó, nhưng tôi vẫn chưa thấy mặt vị này bao giờ. Bức tượng có một điểm rất đặc biệt khiến ai nhìn vào cũng gây ấn tượng là có một bộ râu rất dài và rất rậm. Bộ râu dài, nước da trắng hồng như vậy khiến tôi liên tưởng đến ông tiên nào đấy trong truyện dân gian. Điều đặc biệt là sau này tôi biết Ngài có biệt danh “ông tiên bên đạo”, các giáo dân đã đặt cho Ngài biệt danh như thế.
Tôi bèn hỏi anh đi cùng với tôi, vì tôi là người mới nên được một anh dẫn tôi từ cổng vào nhà Dòng, anh ấy là người cùng quê với tôi, chúng tôi chơi với nhau lúc còn ở quê.
– “Anh ơi, ông này là ai vậy, trông có vẻ như một ông tiên ấy nhỉ?” Tôi hỏi anh.
– Anh đáp lời tôi: “Ông tiên đâu ra trời, ông này là Đấng Sáng Lập Dòng hay còn được gọi là Đức cha Tổ Phụ đấy, ông này là người Pháp, nên có bộ râu dài như vậy đó, sau này em sẽ được tìm hiểu nhiều hơn về ông này nhé!”
Sau đó, anh đưa tôi vào gặp cha Giám đốc Đệ Tử Viện, các cha Phụ tá và toàn thể anh em.
Tôi vào Dòng, với một ơn gọi khá là mơ hồ. Thông thường trước khi người ta vào nhà dòng nào thì sẽ tìm hiểu trước về sứ mạng hay linh đạo của dòng đó để xem mình có hợp với ơn gọi dòng đó hay không. Nhưng đối với tôi, điều này không xảy ra, vì tôi có biết gì về ơn gọi, dòng hay triều là gì đâu; tôi được sự hướng dẫn của chú mình, rồi đi vào dòng mà thôi…
– Tôi là một người khá ưa sống tự do, thoải mái bay nhảy, không theo một khuôn mẫu nào, nên xem ra, tu trì không có hứng thú với tôi. Nhưng lạ kì thay, vào khoảng thời gian cuối năm học kì hai, trong tâm hồn tôi cứ có sợi dây, hay có một thế lực siêu nhiên nào đó thôi thúc tôi vào dòng. Tôi đã nghe theo sự thôi thúc đó nhưng trong đầu vẫn còn ý nghĩ, nếu không hợp thì ở vài tháng gì đó rồi ra ở trọ, tiếp tục học và tìm một công việc nào đó…
Và thế là gió cuốn mây trôi, gió đánh đò đưa, tôi đã qua một năm ở trong Dòng…
Tôi nhớ đến câu nói của người dẫn tôi từ cổng nhà dòng vào “Sau này em sẽ biết rõ hơn về ông này”. Trong năm đầu của tôi, tôi được các Cha hướng dẫn về cách ăn nết ở và giúp tôi tìm hiểu ơn gọi của Dòng. Và không hiểu tại sao càng lâu tôi lại càng yêu mến Dòng hơn. Năm đầu, tôi được hướng dẫn tìm hiểu về Dòng ngang qua lịch sử của Dòng và về Đấng Sáng Lập… Nhưng kiến thức đọng lại trong đầu tôi không nhiều.
Sang năm thứ hai và thứ ba, tôi chủ yếu tập trung vào chuyên ngành mà tôi đang theo học. Tôi học Sư phạm Ngữ văn, nhưng kiến thức nền của tôi vào lúc đó khá là hạn hẹp. Vì trong thời gian học cấp ba, ý nghĩ của tôi chỉ mong sao đậu tốt nghiệp rồi làm hồ sơ đi xuất khẩu lao động mà thôi, nên thời kì học cấp ba, tôi khá là chểnh mảng. Đến gần cuối lớp mười hai, tôi mới quyết định học đại học và cũng mới có ý đi tu theo tiếng gọi bên trong con người tôi…
Thời gian trôi đi nhanh quá, nay tôi đã là sinh viên năm thứ tư và là năm cuối ở Đệ Tử Viện. Trong năm cuối này cũng là năm đặc biệt của Dòng: Năm Thánh mừng kỉ niệm 100 năm thành lập Dòng. Trong năm này, nhà Dòng mong muốn mọi anh em trong Dòng phải đặc biệt quan tâm tìm hiểu về Đấng Sáng Lập, về lịch sử hình thành và phát triển của Dòng. Cũng trong Năm Thánh này, Ban Biên tập Tập san Năm Thánh gửi Thư mời viết bài cho Tập San với các chủ đề liên quan đến Dòng, đến lịch sử và Đấng Sáng Lập Dòng. Mọi người ở mọi cấp bậc đều có thể viết bài và gửi về cho Ban Biên tập. Anh em Đệ tử cũng rất hăng hái tham gia sự kiện này, vì ngoài việc viết bài như là một cách thức để tìm hiểu về Dòng, thì người viết bài (nếu bài được chọn đưa vào Tập San Năm Thánh) còn có một phần quà nhỏ từ Ban. Vì vậy, mọi người khá phấn khởi trong sự kiện đặc biệt này, và tôi cũng không ngoại lệ.
Tôi thì khá thích thú về việc tìm hiểu Đấng Sáng Lập của Dòng, nên tôi tìm hiểu khá kĩ về Ngài, và điều làm cho tôi ấn tượng nhất khi tìm hiểu về Ngài là sự kiện, ở tuổi 23 làm Linh mục. Sau đó hai tháng, Ngài ngay lập tức đến Việt Nam để truyền giáo, và suốt quãng thời gian dài sau cho tới khi chết, Ngài vẫn không một lần trở về quê hương, không một lần gặp lại cha mẹ của mình. Ngài quá là vĩ đại!
Trong suy nghĩ của tôi, tôi tự đặt câu hỏi: Ngài không nhớ nhà à, không nhớ cha mẹ mình à?.. Vào thời kì đó làm gì có smart phone như bây giờ, nếu lỡ nhớ cha mẹ thì ngay lập tức có thể gọi điện và gặp mặt được và qua điện thoại cũng có thể nhìn thấy mặt cha mẹ của mình. Nếu là tôi, chắc chắn tôi trở về quê sớm, chắc tôi không bao giờ làm được như Ngài, vì Chúa quên mình phục vụ. Ngài quá là vĩ đại!
Và một điều làm cho tôi ấn tượng về ngài đó là nhân đức tuyệt vời của ngài. Mọi người sống quanh ngài, đặt cho ngài một biệt danh rất mỹ miều “Ông tiên bên đạo”. Mà quả đúng như vậy, trong lịch sử ghi lại Ngài rất yêu mến mọi người, ngài yêu mọi người với châm ngôn Giám mục của mình là “Diligo Omnes” (Tôi yêu mến mọi người).
Một điều tôi rất tự hào, Ngài ngoài là Cha của Dòng Thánh Tâm, thì ngài còn là Cha của Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm. Ngài vì lo cho tương lai của con cháu nên đã lập hai dòng với sứ mạng giáo dục. Quả đúng như biệt danh của Ngài “Ông tiên bên đạo”, ngài quá là vĩ đại!
Sau những tìm hiểu của tôi về Đấng Sáng lập, tôi cảm thấy rất yêu mến ngài, bởi công lao của ngài hết sức to lớn. Ngài để lại cho người và cho đời những giá trị tinh thần rất vĩ đại. Và điều cuối cùng tôi thốt ra sau những tìm hiểu của tôi là “ngài quá là vĩ đại”. Tôi có cảm nhận về ngài bằng những lời thơ như sau:
Cha Allys sinh tại nước Pháp,
Đời ngài rao giảng, chân thành từng câu.
Sang Việt Nam, đất nhiệm màu,
Trọn đời phụng sự, dãi dầu truyền rao.
Ngài yêu thương, nguyện dâng trao,
Chăm lo con cháu mai sau vẹn toàn.
Lập hai dòng thánh ngập tràn,
Thánh Tâm sáng ngời, mẹ hiền dịu thương.
Con Đức Mẹ, lời yêu thương,
Lòng nhân ái ngát, tình vương muôn đời.
Gia sản ngài để cho người,
Giáo hội Việt sống, chẳng ngơi ơn lành.
Châm ngôn sống mãi chân thành,
“Tôi yêu hết thảy”, lòng thành bao dung.
Cha đi, dẫu bước viễn vong,
Tinh thần còn mãi, núi sông tạc lòng.
Chút tản mạn – Trần Trần
Cha kính mến!
Người ta vẫn hay nói nhỏ vào tai nhau rằng: chẳng có ai, chẳng có cái gì sinh ra trên trần gian này mà lại không có ý nghĩa, không có giá trị, nghĩa là mọi thứ tồn tại ở mặt đất này đều nằm trong ý định quan phòng của Đấng Tạo Hóa. Thoạt đầu, con nghe cũng không hiểu lắm và cũng không tin lắm vì chẳng lẽ một đứa vô tri vô giác như con mà cũng có giá trị sao? Thế nhưng, khi được gặp cha con mới nhận ra quả thật mọi thứ đều có giá trị, ngay cả một tờ giấy mỏng manh, nhuốm màu vàng ố, đậm mùi hôi mốc là con.
Thời gian trôi nhanh thật cha nhỉ! Ngoắt một cái mà hôm nay con đã sang cái tuổi “bách chu niên” rồi. Lần thượng thọ này của con thật ý nghĩa, không chỉ với bản thân con mà sự kiện này còn đánh dấu một mốc sử oai hùng cho đoàn con của cha. Biết rằng điều mà con mong ước sẽ không thành sự thật. Nhưng con vẫn buồn tiếc là cha không còn nữa, giả như có sự hiện diện thể lý của cha lúc này thì thật là một hồng ân quá tuyệt diệu cho chúng con.
Trong góc nhỏ của gian phòng, lặng đi một chút con xin tản mạn về cha và về cả con nữa đôi dòng ngắn ngủi. Cha ơi! Dù cha con mình mỗi người một thế giới, cha thế giới loài người, con thế giới vật chất nhưng con vẫn cảm nghiệm tình cha dành cho con.
Cha biết không, khi con được trao vào bàn tay cha, con đã hoang mang lắm đấy vì con nghe “lỏm” rằng chủ nhân của mình là một người ngoại quốc, lại là một thầy giảng đi truyền đạo nữa. Eo ơi! Con sợ ơi là sợ! Con sợ vì dạo đó mọi thứ liên quan đến đạo nghĩa đều khó khăn, mọi thứ đều sẽ bị đốt sạch hết. Nếu vậy, thì con cũng sẽ nằm trong đống tro tàn đó thôi. Nghĩ đến mà con “rùng mình sởn ốc”. Chưa hết, có lúc con còn nghĩ lung tung rằng các bạn con được bay nhảy với những nét vẽ tuyệt đẹp hay những áng văn lẫy lừng, thậm chí có những bạn được nâng niu trong những két sắt, trong những nơi xa hoa tráng lệ. Còn con thì chỉ âm thầm nằm trong hộp bàn của một người xa lạ. Nhưng rồi những suy nghĩ trẻ trâu của con đã bị đánh tan trước thần thái thánh thiện của cha. Có lần nhìn qua khe hở của chiếc bàn con thấy vẻ an nhiên của cha khi vuốt bộ râu trắng. Có lần con nhìn thấy đôi mắt đăm chiêu của cha như bị hút hồn vào bức tượng chịu nạn nhỏ trước mặt. Có lần con còn nhìn thấy những nếp nhăn trên vầng trán cha đang ngày một nhiều hơn và hằn sâu hơn. Con không đoán được cha đang suy nghĩ gì hay cha đang lo lắng gì nhưng con nhận thấy đó là biểu cảm của một người mục tử đang hết tâm hết sức lo cho đoàn chiên của mình.
Thưa cha! Khoảng khắc đẹp nhất và ý nghĩa nhất của cuộc đời con là được cha đưa bút đặt tên: ĐƠN XIN SẮC LẬP DÒNG. Con không thể hình dung và tưởng tượng được mình lại có hồng phúc đón nhận ơn cao quý này. Và con cũng không nghĩ mình lại được trao một trọng trách quan trọng là được lưu giữ nét bút cũng là thao thức ước vọng của cha cho giáo hội Việt Nam, đặc biệt là cho giáo phận Huế thân thương này. Từng nét bút là từng nhịp đập của trái tim yêu thương, là khao khát mong mỏi, là hiến thân phục vụ. Dưới ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, trong sự quan phòng của Thiên Chúa, sau bao đêm ngày trăn trở cha đã đưa ra con đường riêng cho những người con mà cha thương mến: hãy đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Con đường ấy cha đã đi, đã thực hiện và đã sống trọn cả cuộc đời.
Được cùng các tu sĩ Thánh Tâm trải qua những chặng đường gian khó của 100 năm đã qua, con – SẮC LẬP DÒNG cũng trào dâng niềm hạnh phúc khôn tả. Có những chặng đường đầy chông gai sỏi đá, có những chặng đường đầy sa ngã bấp bênh, có những chặng đường lầy lội, có những chặng đường khốn khó gian nguy, có những chặng đường tưởng chừng phía trước là ngõ cụt, nhưng cũng có những chặng đường đầy hương hoa nắng mới. Dù là chặng đường nào, dù là khó khăn đến mấy thì sau đêm giông bão ánh bình minh sẽ ló rạng. Bằng chứng là mọi thứ vẫn đang được diễn ra tốt đẹp, thao thức của cha vẫn đang được ắp đầy bằng lòng nhiệt huyết của các anh em. Và những bước chân truyền giáo vẫn ngày ngày theo tiếng cha mời gọi đến các vùng miền để rao giảng Tin mừng cho muôn dân.
Thưa Đức Cha Tổ Phụ đáng kính! Cha là nhịp cầu nối kết tình yêu Chúa đến với chúng con và truyền dạy chúng con cũng trở nên những khí cụ chuyển trao ơn Chúa đến với muôn người. Thế nhưng, chiếc bình sành mỏng manh dễ vỡ không thể đương đầu với những con sóng gió nếu không đổ vào nó một tình yêu nồng nhiệt: yêu Chúa và yêu người. Trong mối dây thân ái tình cha con, trong sự hiệp thông giữa các tín hữu còn sống và đã qua đời, chúng con tin chắc rằng cha vẫn đang cùng chúng con trên từng bước chân truyền giáo, cha vẫn cùng chúng con trong từng nhịp thở của hồn tông đồ. Phần chúng con, chúng con sẽ cố gắng sống tốt với căn tính của mình và thực hiện tốt di ngôn mà cha để lại cho chúng con.
Hãy đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân – Angelo Tran
Ơn gọi là món quà thiêng liêng cao quý và đặc biệt mà Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại nói chung, cách riêng là cho những ai Người tuyển chọn. Cao quý là vì ơn gọi ấy xuất phát từ Đấng có quyền năng trên hết mọi sự. Đặc biệt là vì ơn gọi ấy không phải là tiếng gọi thông thường được phát ra thành tiếng như lối giao tiếp thường ngày của con người. Ơn gọi ấy là tiếng gọi “vô thanh” từ thâm tâm con người, trong trái tim của người được gọi.
Thiên Chúa luôn mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài để xây dựng, phát triển và gìn giữ Giáo hội của Chúa trong các bậc sống khác nhau. Tuy nhiên, với những người đã, đang và sẽ sống đời tu trì thì lời mời gọi đó lại thêm khẩn thiết, cấp bách và tha thiết hơn. Bởi chính Ngài đã nói: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Mt 9,38). Theo tinh thần của lời mời gọi cùng luồng tư tưởng hướng về lãnh vực truyền giáo, xin được dùng đôi chút hiểu biết giới hạn không phải để “lên màu” cho đời tu. Nhưng qua đó tự bản thân ý thức tình yêu Thiên Chúa dành cho mình khi được chọn gọi và sai đi loan truyền Tin mừng cho muôn dân (x. Mc 16,15).
Trong các trang Kinh Thánh thời Cựu Ước chúng ta bắt gặp các câu chuyện của những ơn gọi với những sứ vụ rất đặc biệt nếu không muốn nói là “kỳ cục”.
Apraham – một ông cụ già đang sống quãng đời “gần đất xa trời” mà lại được Đức Chúa kêu mời rời bỏ xứ sở để đi đến một vùng đất “mới toanh, lạ hoắc.” Cứ lẽ thường điều này đối với con người chúng ta là rất khó tin vì Apraham lúc đó đã cao niên, sức tàn lực cạn, đi lại thường ngày còn khó khăn thì làm sao có thể đến vùng đất xa xôi khác. Lại nữa, cả đời lao động tích góp được chút của cải, chút thổ canh thổ cư an phận tuổi già thì Đức Chúa lại kêu gọi ông bỏ đó mà lên đường. Thế nhưng, điều đó chưa lạ cho bằng lời hứa của Đức Chúa sẽ cho ông một dòng dõi đông đảo như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển (St 22, 17). Vậy mà tổ phụ Apraham – cha của các kẻ tin vẫn lên đường thực thi những gì Chúa muốn và Chúa dạy. Giả như là bạn và tôi thì liệu rằng chúng ta có dám “lọ mọ” gậy chống lưng còng trong độ tuổi cằn cỗi ấy để sẵn sàng, sẵn lòng đáp lại tiếng Chúa hay không nhỉ?
Môsê – một người không có tài ăn nói “Lạy Chúa, xin xá lỗi cho con, từ hồi nào đến giờ, ngay cả từ lúc Chúa ban lời cho tôi tớ Ngài, con không phải là kẻ có tài ăn nói, vì con cứng miệng cứng lưỡi.” (Xh 4, 10). Ông lại có một tiền sử khá đặc biệt và đã từng có tiền án giết người. Ấy vậy mà Đức Chúa đã để ý tới ông và chọn gọi ông với sứ mạng giải thoát dân người khỏi sức nặng của sự đàn áp tại Ai Cập. Không tính sự dũng cảm vốn có của ông, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy sự tín thác vào Đức Chúa của ông khi thi hành sứ mạng. Hết lần này đến lần khác ông vâng lời Đức Chúa đàm đạo với vua Ai Cập. Và rồi khi đã đưa được dân ra khỏi đất nước đau khổ ấy, Môsê lại luôn phải nghe những lời ca thán than phiền thậm chí là thách thức và sỉ nhục của dân chúng. Nhưng ông vẫn một lòng chu toàn bổn phận là trung gian của Đấng Cứu Thế với dân Ngài. Giả như là bạn và tôi thì liệu rằng khi thi hành sứ vụ mà gặp những gian nan đau khổ như vậy chúng ta có dám bước những bước tiếp theo trên con đường ơn gọi của mình không nhỉ?
Gioan Tẩy Giả – vị ngôn sứ giao thời giữa Cựu Ước và Tân Ước, người đã sống cả đời với sự khiêm tốn nhỏ mọn cùng lòng khao khát được thấy Đấng Cứu Tinh mà nhân loại đang trông ngóng. Và khi được gặp thấy Đấng ấy, Gioan đã tự nhận mình bất xứng hèn hạ đến độ không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài tức là Gioan nhận mình không bằng một kẻ đầy tớ khi đứng trước Vị Vua cao cả là Giêsu Nazaret. Sự khiêm tốn ấy của Gioan được lưu trong các trang Tin mừng như một phương lối cho những người khao khát sống đời dâng hiến. Giả như là bạn và tôi những người đã đang và sẽ sống đời thánh hiến, chúng ta có sẵn lòng từ bỏ những ham mê lợi lộc, những bả vinh hoa phú quý, những tham danh tiền bạc mà sống phó thác, khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa và tha nhân không nhỉ?
Đức Trinh Nữ Maria – Mẹ Đấng Cứu Thế và Mẹ của Giáo Hội cũng là Mẹ của mỗi người chúng ta. Đang sống một cuộc sống êm đềm như dải lụa nhẹ nhàng bay trong gió bên cha mẹ và những người thân thuộc hàng xóm láng giềng thì “đùng một cái” sứ thần Chúa hiện ra báo tin Mẹ mang thai con Chúa Trời. Một “cú sốc tâm lý” đầu đời đã làm chính Mẹ cũng không dám tin “ làm sao chuyện đó có thể xảy ra được vì tôi không biết đến việc vợ chồng” (Lc 1, 34).
Thế nhưng, trong giây lát lý trí của thiếu nữ nhỏ bé ấy đã kịp định hình lại sau lời trấn an của thiên thần Chúa “ Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà. Vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc1, 35-36).
Cuối cùng, “cái kết đẹp” của cuộc gặp gỡ ấy là tiếng thưa xin vâng mau mắn không chút hồ nghi của Mẹ. Và rồi như các thánh phụ đã suy gẫm, dường như mọi sự trên trời dưới đất đều nín lặng chờ đợi câu trả lời của Mẹ. Cho đến khi tiếng thưa vâng cất lên từ môi miệng Mẹ, tất cả đã vỡ oà vì sung sướng. Dù biết rằng vâng nghe thánh ý Chúa qua lệnh truyền của các đấng bề trên là một trong những con đường để chúng ta nên thánh. Nhưng giả như là bạn và tôi thì liệu rằng chúng ta có mau mắn vâng lời các vị đại diện Chúa nhất là khi trái ý cực lòng không nhỉ?
Phêrô, Anrê, Giacôbê, Gioan – bốn môn đệ đầu tiên được chọn gọi trong bối cảnh hết sức bình thường gần như không có chủ đích của Chúa Giêsu. Vì theo như trình thuật của Máthêu thì khi đi Đức Giêsu đang đi dọc theo biển hồ Galilê thì thấy các ông chứ không phải là Ngài đi ra đó để tìm các ông. Nghĩa là Ngài không chủ đích dùng một hình thức như marketing hay lời hứa hẹn nào mà đơn giản là Ngài đã thấy và đã gọi các ông theo Ngài. Cách Chúa gọi đã lạ rồi mà cách đáp trả của các ông còn lạ lùng hơn nữa. Cả bốn ông đều là những người có kinh nghiệm ngư phủ nhưng lại không hề thắc mắc, không hề có chút biểu hiệu của sự ngạc nhiên. Thay vào đó là thái độ dứt khoát lập tức bỏ chài lưới (Mt 4, 20) là sự nghiệp và bỏ cha (Mt 4, 22) là máu mủ ruột thịt để theo Chúa. Giả như là bạn và tôi, khi sự nghiệp của mình đang như “diều gặp gió” tiền của xài không hết, để không hao thì liệu rằng chúng ta có dễ dàng bỏ đó mà theo chân Chúa không nhỉ?
Saolô – một người tri thức có tầm, một tay bắt đạo khét tiếng đang “nổi như cồn” khi “phủ vai” là người hùng lùng bắt Kitô hữu. Không loại trừ một ai, chỉ cần nghe biết họ là những người theo Giêsu Nazaret thì lập tức tiếng chân ngựa phi rầm rầm cùng với bộ mặt hầm hầm sát khí, Saolô đã có mặt để đe doạ, để triệt hạ. Vậy mà kẻ bắt đạo ấy lại là “lợi khí Ta chọn để mang danh Ta đến trước mặt các dân ngoại, các vua chúa và con cháu Israen” (Cv 9,15). Quả thật, sau cú ngã ngựa để đời ấy, Saolô dân ngoại đã trở thành Phaolô tông đồ nhiệt thành của Đức Giêsu. Lặng một chút, bạn và tôi hãy soi dọi lòng mình xem đã bao lần chúng ta đắm mình trong vũng nhơ tội lỗi, đã bao lần chúng ta khước từ sự hiện diện của Chúa. Và cũng đã bao lần chúng ta dám đứng lên, dám thay đổi, dám xác quyết đức tin của mình mà làm chứng cho Đức Kitô phục sinh không vậy?
Hãy đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân là lời mời gọi “hot” của mọi thời đại và mọi đối tượng, nhất là cho những tâm hồn thành tâm thiện chí ước mong xây dựng Nước Chúa. Nếu như các nhân vật được kể trên là hơi xa vời với chúng ta thì lược lại các trang sử của Giáo Hội Công giáo Việt Nam, chúng ta sẽ dễ dàng thấy được các tấm gương của sự hy sinh dâng hiến cuộc đời cho công cuộc loan báo Tin Mừng. Các nhà thừa sai trong ơn gọi của mình đã không ngần ngại, không do dự, không chần chừ đi đến mảnh đất xa xôi nghèo nàn, đa phong tục, đa tôn giáo là quê hương Việt Nam để gieo mầm cây đức tin như chúng ta có ngày nay. Đâu phải dễ dàng gì để các ngài thi hành sứ vụ, những mối nguy hại đe doạ đến tính mạng như “sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé”(1Pr 5,8). Cũng chẳng dễ dàng gì để các ngài có thể hòa nhập với những ngoại cảnh khác nhau tại miền đất này. Đó là chưa kể đến các cuộc bách hại đạo dã man qua các thời kỳ quan quyền vua chúa. Có những vị đã phải thiệt mạng để bảo vệ cây đức tin còn non nớt.
Nhiều khi đọc lại các câu chuyện cuộc đời của những chứng nhân đức tin, của những bước chân truyền giáo năm xưa, chúng ta dễ coi thường, cho đó chỉ là một câu chuyện giản đơn của một phận người với đôi dòng lược sử, vậy thôi. Lý do cho những suy nghĩ đó không thể đổ lỗi hết cho thời cuộc hay cho sự phát triển của xã hội. Cái chính có lẽ là do lối suy nghĩ và ý thức của mỗi người. Nếu chúng ta khoác lên mình chiếc balo nặng trĩu tình yêu Chúa mà ban phát cho tha nhân thì chúng ta sẽ nhẹ tênh để tiến bước về quê trời. Ngược lại, nếu chúng ta chỉ biết đong những của cải vật chất khi vun vén vơ vét của người khác thì chính nó không những làm cản trở mà thậm chí còn đè chết chúng ta nữa.
Vậy nên, chúng ta – những thế hệ trẻ là bạn và tôi cần có cho mình đôi khoảng thời gian trong cuộc đời sống chậm lại để nghiền, để ngẫm, để suy các giá trị thiêng liêng cao quý của cha ông mà chúng ta đang được thừa hưởng cách nhưng không. Đồng thời, chúng ta cũng phải học mẫu gương của các bậc tiền nhân trong việc đón nghe và thực thi thánh ý Chúa; dẹp bỏ đi trong mình lối suy nghĩ “chú khoẻ anh mừng” hay “không có mợ chợ vẫn đông” để cùng hăng say trên con đường truyền giáo mang Chúa đến cho mọi người. Lời mời gọi của Đức Giêsu không phải chỉ dành cho các tông đồ, cho các vị truyền giáo mà lời mời gọi đó còn dành cho chúng ta nữa. Là những người sống đời thánh hiến, được mời gọi sống niềm vui Nước Trời ngay tại trần gian này lẽ nào chúng ta lại ngại ngùng không dám bước chân đến với các anh chị em chưa nhận biết Chúa. Ra đi loan báo Tin Mừng không khó, nếu có khó thì chỉ là do chúng ta không chịu dấn thân, không chịu từ bỏ, không chịu hy sinh, không chịu phản chiếu hình ảnh Đức Kitô chăng?
Hãy giữ mình là tấm gương trong không gợn đục để người khác thấy vào mà nhận biết tình yêu Chúa và để cho Nước Chúa được rạng rỡ vinh quang.
Yêu Để Được Yêu – Tiến Hội
Tôi thật may mắn khi kết thúc bốn năm đại học đúng thời hạn và đã được giới thiệu tới Đệ Tử Viện Dòng Thánh Tâm Huế. Đây là nơi mà tôi được sống trong môi trường “Đời Tu”, nơi mà tôi được sống với tình thương mến thương, là nơi mà tôi được sống với đúng nghĩa của hai chữ “tự do”. Tự do làm điều mình thích, tự do làm điều mình muốn và nhất là tự do yêu như Chúa yêu tôi…
Lần này tôi sẽ kể cho các bạn nghe một câu chuyện tưởng chừng là không có nhưng nó lại diễn ra trong đời sống của tôi. Lần kia, khi tôi đang ngồi vào bàn học lớp năm 4 của Đệ Tử Viện Dòng Thánh Tâm Huế. Lúc tâm trí tôi đang mơ hồ nhìn quang cảnh xung quanh sân nhà dòng, lúc tôi đang không biết học gì? Thì đột nhiên, tôi nghe tiếng như ai đó đang trò chuyện với nhau, tôi đảo mắt nhìn quanh nhưng không thể nhìn thấy một ai, vì giờ này là giờ học nên không ai được nói chuyện làm phiền anh em học bài. Tôi nhìn mãi, tìm mãi thì thấy một chú chim bé nhỏ, có bộ lông màu xanh đậm và một chú sâu nhỏ xíu xíu nhưng trông rất vừa mắt đang nói chuyện với nhau. Tôi thốt lên: “Cha ôi, chuyện lạ Việt Nam! Chuyện lạ Bình Dương! Nay thêm chuyện lạ Đệ Tử Viện Thánh Tâm sao! Đúng ở đời không có gì là không thể? Tôi phải rình xem hai đứa đó nói gì?
“Yêu để được yêu”, con chim nói. Ái chà, con chim này khá thiệt, không chỉ biết nói mà nó còn biết nói đạo lý nữa kìa! Tôi đoán ngay ra là con chim đã nghe bài giảng tĩnh tâm sáng hôm Chúa Nhật của thầy Phụ tá Giám đốc đây mà. Tôi nhếch mép cười, con này khá… Tôi tiếp tục nghe chúng nó nói gì nữa không?
Con sâu hỏi lại: “Yêu là gì?”.
Con chim trả lời: “ Yêu là cho đi vô vị lợi, là hy sinh tất cả vì người khác, hiểu, đồng cảm và tôn trọng nhau”. Ái chà chà, con chim này khá thiệt, biết giảng giải luôn cơ chứ.
Bất chợt tôi nghĩ tới Chúa, Chúa đã cho tôi tất cả vì yêu tôi, Chúa luôn chấp nhận mọi khuyết điểm của tôi. Mỗi lần tôi buồn, tôi mệt mỏi Chúa đã không bỏ rơi tôi, Chúa đã lắng nghe những gì tôi nói mà không một chút than phiền. Nhất là Chúa đã hạ mình chịu chết vì yêu thương tôi, vì tội lỗi tôi phạm mà Chúa đã hiến mạng sống để cứu rỗi tôi. Nhưng tôi lại thờ ơ, không cảm tạ Chúa về những gì Chúa đã làm cho tôi. Tôi tưởng rằng tôi đã vững tin vào Chúa nhưng khi tôi mệt mỏi, khi đời đầy gian nan tôi lại ngã lòng. Nước mắt tôi bất chợt rơi lúc nào không hay.
Đột nhiên tôi nghe một tiếng hát vang lên, lại là con chim, lần này nó vang lên câu: “Một bài ca mới, hát lên một bài ca mới…” A!…. thì ra con chim này còn biết hát nữa cơ chứ. Nó như biết được tâm tư, suy nghĩ tôi hết thảy vậy. Nó nói với con sâu, trong tình yêu lúc nào cũng là một bài ca mới, khi ta yêu hay được yêu điều đầu tiên là hãy tạ ơn Chúa, hãy tạ ơn nhiều hơn là cầu xin nhé.
Trời! Trời! Con chim này còn biết tạ ơn Chúa nữa cơ à. Vậy mà tôi là một con người, là một Ki-tô hữa mà lại không biết mở miệng cảm tạ Chúa. Tôi chợt nhận ra tôi thật là người vô ơn. Tôi luôn được Chúa yêu thương, săn sóc và dõi theo tôi nhưng tôi lại không biết tạ ơn Ngài. Cảm ơn con chim đã nhắc tôi về điều này. Nhưng tại sao con chim lại biết tạ ơn Chúa nhỉ?
Tôi lại chú ý nghe tiếp .
Chim nói: “Tạ ơn Chúa đã tạo ra tôi, đã không bỏ rơi tôi, đã không để tôi phải đói”.
Sâu đáp trả: “Sao anh biết được Chúa đã làm cho anh những điều đó? sao anh lại ca tụng Ngài như vậy? Chúa đã đem thức ăn đến cho anh sao?”
Con chim nghiêm giọng trả lời, Đức Giêsu nói: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”. Còn có câu: “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng.” Ngày ngày tôi được nghe lời Chúa, được sống trong bầu khí tình yêu của Thiên Chúa nên tôi biết chứ. Ta phải luôn tạ ơn Chúa vì tình yêu Ngài trao ban chứ.
Con sâu vỗ tay và đáp: “Tôi cũng cảm tạ Chúa, cám ơn anh đã không ăn thịt tôi, đã chung sống với tôi như bạn hữu vậy.”
Con chim cười phì và đáp lại: “Ta đang sống trong không gian đời tu, sống trong môi trường Đệ Tử Dòng Thánh Tâm Huế mà. Bạn xem, những người anh em Đệ Tử kìa, họ có quen biết nhau từ trước không, họ cũng không phải là anh em họ hàng gì với nhau, nhưng vì tình thương mến thương họ đã đùm bọc nhau đó thôi.”
Tôi cười lên vì con chim này thật biết cách ăn nói và cũng thật đáng ngưỡng mộ. Đúng là “đi với bụt thì mặc áo cà sa, đi với ma thì mặc áo giấy”. Ở trong không gian của đời tu, con chim cũng học hỏi được không ít các tính cách nhân đức của người Tu sĩ Thánh Tâm…
Đang vui vì hóng được chuyện của hai đứa nó, bỗng dưng hai đứa nó lại rủ nhau đi chơi…
Tôi ngồi suy gẫm lại cuộc sống của tôi trong một tháng qua tại Dòng. Nhiều lúc tôi mệt mỏi chán chường, lo lắng về việc học thì chính người thầy đã nói với tôi: “Đừng lo lắng, hãy bám lấy Chúa mà sống”. Lúc đó tôi lại có thêm động lực để học tập. Khi tôi buồn phiền chán nản về mọi thứ, chính anh em trong Đệ Tử Viện đã quan tâm và chia sẻ cho tôi nhiều điều. Lúc tôi ốm, chính những người anh em của tôi đã chăm sóc tôi, mua cháo, mua thuốc cho tôi, thậm chí là họ đã giặt quần áo giúp tôi. Tôi biết họ làm những việc đó không phải vì danh lợi mà là vì họ học được cách sống huynh đệ, tinh thần tình thương mến thương…
Quả thật, tình yêu là cho đi, cho đi nhưng không cần nhận lại, là phục vụ với nụ cười trên môi. Tôi biết ơn Chúa đã cho tôi sống trong môi trường mang tên Đệ Tử Viện Dòng Thánh Tâm Huế. Cảm tạ Chúa đã yêu thương và gửi tôi đến nơi đây.
Phần kết, tôi muốn nhắn nhủ các bạn trẻ hãy yêu để được yêu. Đời tu là để yêu, yêu tất cả mọi người, và làm cho tất cả mọi người yêu mình nhưng lại không sở hữu một ai cho riêng mình, yêu một cách tự do nhất, một cách tốt đẹp nhất. Hãy phục vụ anh em mình vì tình yêu như Chúa đã yêu thương chúng ta vậy. Có người nói với tôi: “Đi tu đi rồi bạn sẽ biết thế nào là Tự Do”. Đúng vậy, khi mình quyết định dâng mọi sự cho Chúa và sống dâng hiến cho Chúa thì lúc đó bạn sẽ nhận ra “Tự Do” là như thế nào? Cuối cùng tôi xin nhắc lại câu nói: “Hãy yêu để được yêu”.
Bước theo THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU SỐNG NÊN THÁNH – Paul Hồng Trần, CSC
Trong Tông Huấn Gaudete et exulatate, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắn nhủ: “Chúa muốn chúng ta nên thánh chứ không hài lòng với một hiện hữu nhạt nhẽo và xoàng xĩnh” (số 1). Hành trình nên thánh là lời mời gọi tha thiết với hết thảy mọi người, không phân biệt tuổi tác, giới tính, giai cấp, chức sắc hay nghề nghiệp, mà tùy thuộc vào bậc sống với hoàn cảnh cụ thể của mỗi người.
Quả thật, nên thánh là cùng đích và tối hậu của đời người, ngang qua con đường bác ái, yêu thương, và tín thác, bằng sự can đảm dám lội ngược dòng đời trước những sự quyến luyến của thế gian, khước từ những ham muốn bất chính, biết từ bỏ chính mình, vác thập giá của mình (x. Mt 16,24) để bước theo gót chân của Thánh Tâm Chúa Giêsu.
“Như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong,
hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa”
(Tv 42,2)
Sự khao khát cháy bỏng của con người chính là tìm về với Đấng Công Chính, Đấng Thánh Thiện mà Thiên Chúa đã đặt để trong cõi lòng của mỗi người, như thánh Augustinô từng thổ lộ: “Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa nên lòng chúng con khắc khoải cho đến khi nghỉ yên trong Chúa”. Đặc biệt, Dòng Thánh Tâm Huế đang sống trong tâm tình của Năm Thánh. Đây là dịp thuận tiện để mỗi thành viên trong Dòng nhìn lại chặng đường đã qua với tâm tình tạ ơn Thiên Chúa, sống hăng say giây phút hiện tại và hướng đến tương lại với tràn đầy niềm hy vọng.
Hơn nữa, Thánh Tâm Chúa Giêsu là mô phạm tuyệt mỹ, là con đường chân lý vẹn toàn, là linh đạo tối cao, để mỗi thành viên trong Dòng bắt chước sự thánh thiện trọn hảo của Người, ngõ hầu ngày càng tiến bước vững chắc hơn trên con đường nên thánh.
1. Thánh Tâm Chúa Giêsu mặc khải Người là Đấng Thánh
Thánh Tâm Chúa Giêsu, Người mang trong mình hai bản tính: Thiên Chúa và loài người; hai bản tính không lẫn lộn, không thay đổi, không phân chia, không tách biệt (x. Công Đồng Chalcêđônia năm 451) nhưng kết hợp trong một Ngôi Vị duy nhất. Người là Con Thiên Chúa, đồng bản thể với Chúa Cha. Người có từ đời đời, trước khi tạo dựng muôn loài muôn vật (x. Ga 1,1-3). Vì thế, Người đã mặc khải, Người là Đấng Thánh (x. Lv 19,2).
Vì yêu nhân loại, Con Thiên Chúa đã tự nguyện trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên con người, sống gần gũi với nhân loại (x. Pl 2,6-7). Người là con người thật, có Trái Tim cùng hòa nhịp đập với trái tim của con người. Tuy nhiên, với thân phận con người, nhưng Người không hề vướng mắc một tì vết tội lỗi nào (x. Dt 4,15). Do đó, Người có chết là chết vì tội lỗi nhân loại, để đem ơn cứu chuộc cho hết thảy mọi người (x. Rm 5,8).
Qua cuộc truyền tin cho Đức Mẹ, sứ thần đã loan báo: “Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35). Như thế, ngay từ khởi đầu, Người được Chúa Cha hiến thánh và sai đến trần gian (x. Ga 10,36) trong lòng dạ khiết trinh của Đức Maria.
Khởi đầu sứ vụ công khai, Đức Giêsu đã được xức dầu thánh hiến trong tư cách là Đấng Mêsia của Thiên Chúa (x. Cv 10,38). Vì thế, những việc Người làm và những lời Người dạy giúp chúng ta nhận biết Người là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1,24). Hơn nữa, qua cuộc sống ở trần gian, Người hằng liên kết mật thiết với Chúa Cha. Được Thần Khí nâng đỡ và hướng dẫn, tất cả những điều Người nói, Người làm, Người nghĩ đều xuất phát từ tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Chính nhờ kết hiệp sâu xa với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, Người đã không vướng mắc những cạm bẫy của ma quỷ và thù địch trần gian. Người tỏ mình ra như Người Tôi Trung của Thiên Chúa, hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Sự thánh thiện của Người làm cho ma quỷ phải kinh sợ, khuất phục, bỏ đi và không thể làm hại Người (x. Mt 4,1-11).
Quả thật, qua chứng từ của Chúa Cha và sự hướng dẫn của Thần Khí, cùng với sự liên kết mật thiết của Chúa Giêsu trong nhiệm cục tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta khám phá và xác tín, Chúa Giêsu là Đấng Thánh, Người vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời (x. Dt 13,8). Chúng ta hãy tận dụng mọi giây phút, dùng sức lực và trí khôn để quy hướng về Ngài, là nguồn Chân Lý, Sự Thật và Thánh Thiện vì “Người là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).
2. Thánh Tâm Chúa Giêsu là mẫu gương cho đời sống thánh thiện
Chúa Giêsu đến thế gian để rao giảng và làm chứng cho nhân loại nhận biết tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Trái Tim Người đã sống trọn vẹn cho tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa và Người đã trao ban một cách nhưng không tình yêu ấy cho hết thảy mọi người. Vì vậy, Người đến trần gian với lòng vâng phục ý Chúa Cha để đem ơn cứu độ cho nhân loại. Việc thi hành và thực hiện ý Chúa Cha như là nhiệm vụ cao cả mà Trái Tim Người nhắm tới “lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,34). Hơn nữa, Người có lòng khao khát sự thánh thiện cực độ, đến nỗi không có một giây phút nào mà Người không nghĩ tới. Sự khao khát đó nâng đỡ và giúp Người, kết hiệp mọi biến cố cuộc đời trong sự hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.
Sự thánh thiện của Người được thể hiện trong đời sống khó nghèo triệt để: sinh ra trong hang đá máng lừa; lớn lên trong thôn quê nghèo khổ, phải lao động cực nhọc bằng chân tay. Như vậy, qua việc tuân phục Đức Maria và thánh Giuse, và qua việc lao động khiêm nhường, Người đã nêu gương thánh thiện bằng cuộc sống hằng ngày trong gia đình và trong công việc lao động. Ba năm rao giảng, với hoàn cảnh “con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8, 20); cho đến chết trần trụi, nhục nhã và tức tưởi trên cây thập giá. Như thế, Người đã không để tâm hồn bám víu vào những của cải trần thế, Trái Tim Người luôn quy hướng về sự thánh thiện của Cha Người.
Sự thánh thiện của Người còn được biểu hiện bằng một trái tim chan chứa tình yêu vô bờ bến với lòng thương xót, sự hiền lành và khiêm nhường (x. Mt 11, 29). Trái Tim Người rung động và chạnh lòng thương xót trước những mảnh đời bất hạnh và những số phận kém may mắn. Người đã chữa lành đủ thứ bệnh tật, cho kẻ mù được thấy, kẻ điếc được nghe, người câm nói được, người què đi được, người chết được sống lại (x. Mt 15, 31), tẩy trừ thần ô uế và hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng. Người rủ lòng thương dân chúng vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt (x. Mt 9, 36). Ngoài ra, Chúa Giêsu “đã đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20, 28). Người đến trần gian với sứ mạng quy tụ con cái đang tản mác về một mối. Người sẵn sàng băng qua đồi núi hiểm trở, làng mạc, thành thị và nhiều thôn xóm (x. Mc 7, 56), để đến với những ai chưa nhận ra ánh sáng Tin Mừng cứu độ. Người không hề tìm sự dễ dãi hay nghỉ ngơi (x. Mc 1, 38).
Quả thật, Người đã sống một mẫu gương nên thánh trọn hảo, ngang qua đời sống bên ngoài lẫn bên trong tâm hồn. Người đã kết hiệp sâu xa trong Ba Ngôi Thiên Chúa, để mọi giây phút trong cuộc đời của Người luôn hướng đến sự thánh thiện. Lòng thương xót, sự hiền lành, với tâm tình khiêm nhường, tinh thần phục vụ và lòng hăng say rao giảng Tin Mừng đã dệt nên cuộc đời thánh thiện của Người.
3. Thánh Tâm Chúa Giêsu mời gọi Tu sĩ Thánh Tâm sống nên thánh
Chúa Giêsu kêu gọi: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48) và ưu tiên trước hết là tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người (x. Mt 6,33). Như thế, để trở nên hoàn thiện, mỗi Tu sĩ Thánh Tâm cần phải họa lại khuôn mặt của Chúa Giêsu, bước theo Thánh Tâm Người, vì Người là mô mẫu tuyệt hảo. Và mỗi người chúng ta cần học nơi Người lòng thương xót, sự hiền lành, sự khiêm nhường (x. Mt 11,29) và vâng nghe lời Người (x. Mc 9,7). Nước Trời là cùng đích và tối hậu cho đời sống con người. Vì thế, Tu sĩ Thánh Tâm phải sống cuộc đời công chính để chiếm được Nước Trời (x. Mt 5,20), từ bỏ lối sống đạo đức giả “mồ mả tô vôi”, tránh đi những men xấu gây phương hại cho những người xung quanh. Lòng khao khát sự công chính là yếu tố giúp người Tu sĩ biết truy tìm về Đấng khởi nguồn sự sống, Đấng ban sự sống; và Người hứa sẽ khỏa lấp sự khao khát đó,“Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng” (Mt 5,6). Mặt khác, Tu sĩ Thánh Tâm cần có tinh thần của trẻ thơ trong tương quan với Thiên Chúa, đó là sự tự hạ (x. Mt 23,12), bé mọn và tín thác vào tình yêu của Cha Trên Trời (x. Mt 18,3).
Thánh Tâm Chúa Giêsu là mẫu gương cho đời sống cầu nguyện. Vì thế, người Tu sĩ muốn nên thánh phải thường xuyên cầu nguyện và kiên trì trong lời cầu nguyện của mình (x. Mt 26, 41), vì Người đã hứa: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho.” (Mt 7, 7). Sự kiên trì trong cầu nguyện thể hiện lòng nhiệt thành muốn dâng hiến, tin tưởng, trông cậy và tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa, dâng lên Người những lo lắng vật chất, xin Người đón nhận những sự bất toàn như Người đã dạy trong Kinh Lạy Cha (x. Lc 1, 1-4).
Hơn nữa, để nên thánh, người Tu sĩ phải bắt chước Đức Giêsu về việc sống đức ái trọn hảo, là yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn; và yêu mến người thân cận như chính mình (x. Mt 22, 37-40), thậm chí phải yêu luôn kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em (x. Lc 6, 26), vì yêu thương là điều răn mà Người đã truyền dạy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12).
Của cải trần thế dễ dàng níu kéo Tu sĩ vào con đường ham mê vật chất, dung dưỡng thân xác mà thiếu sự sự cảm thông và thương xót. Vì thế, chỉ có can đảm khước từ và sống khó nghèo triệt để, Tu sĩ mới dành trọn vẹn trái tim cho Thánh Tâm Người. Sự can đảm từ bỏ là yếu tố giúp Tu sĩ dám đón nhận thập giá của cuộc đời, mang thập giá vào mình và bước đi trong tin yêu (x. Mc 8, 34), dầu phải thiệt mất mạng sống nhưng sẽ được phần thưởng xứng đáng hạnh phúc mai sau (x. Mt 16, 24-26).
Quả thật, Chúa biết Phêrô sẽ chối Chúa ba lần (x. Mt 26, 69-75), Giuđa Iscariốt sẽ bán Chúa ba mươi đồng bạc (x. Mt 26, 15) và Tu sĩ sẽ nhiều lần vi phạm Ba Lời Khuyên Phúc Âm, nhưng Chúa không muốn loại trừ bất kỳ ai, vì Người muốn cho mỗi người có cơ hội được hoán cải, canh tân, để nên thánh. Chính Người là Đấng Thánh và Người hằng mong mỏi nhân loại, đặc biệt là Tu sĩ Thánh Tâm hãy sống nên thánh theo những điều Người đã truyền dạy. Dù làm bất cứ việc gì, Tu sĩ Thánh Tâm hãy làm với tình yêu và sự khiêm nhường để tôn vinh Thiên Chúa và mưu ích cho các linh hồn (x. 1Cr 10, 31).
4. Thánh Tâm Chúa Giêsu mời gọi Tu sĩ Thánh Tâm sống trọn hảo trong hồng ân Năm Thánh
Đấng Sáng Lập Eugene Marie Joseph Allys đã muốn cho các Tu sĩ Thánh Tâm được cung hiến cho Thánh Tâm Chúa, để mặc lấy những tâm tình của Ngài là lòng thương xót, sự hiền lành và khiêm nhường, hầu trở nên tông đồ của tình yêu Thiên Chúa. Như vậy, qua trường học của Thánh Tâm, mỗi Tu sĩ phải để cho tâm hồn mình được thiêu đốt ngọn lửa yêu mến Thiên Chúa và khao khát cứu rỗi các linh hồn; hầu dấn thân phục vụ, sống tâm tình phó tác và lòng tri ân (x. HP số 3).
Năm Thánh là dịp thuận tiện để mỗi thành viên trong Dòng có thời gian nhìn lại những gì đã qua với tâm tình cảm tạ Thiên Chúa, tri ân các bậc Tiền nhân và hướng đến một tương lai đầy hy vọng trong sự chở che của Thánh Tâm Chúa Giêsu và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Sống Năm Thánh trong tinh thần của Đấng Sáng Lập, nghĩa là sống trung thành với sứ mạng, đặc sủng và linh đạo, để gia sản của Hội Dòng như dòng nước dinh dưỡng thấm nhập vào từng phần tử của Dòng, để hoa trái đời sống thiêng liêng luôn được trổ sinh và đơm bông kết trái.
Thánh Tâm Chúa Giêsu là mô mẫu cho sự thánh thiện, vì thế, qua việc cử hành Năm Thánh, mỗi thành viên trong Dòng hãy bắt chước đời sống thánh thiện của Người, để thánh hóa mọi nhịp đập của cuộc sống, từ các hoạt động tông đồ cho đến đời sống thiêng liêng luôn được củng cố bằng đức tin kiên trung, đức cậy vững vàng và niềm yêu mến sắt son.
Ngoài ra, sự nên thánh chính là sống đúng căn tính ơn gọi của mình, chính là sự tận hiến phục vụ cho Nước Chúa, bằng việc tuân giữ Ba Lời Khuyên Phúc Âm: Khiết tịnh, Thanh bần và Tuân phục. Nhờ đó, mỗi Tu sĩ được tham dự vào đời sống thần linh của Ba Ngôi Thiên Chúa và liên kết mật thiết với Hội Thánh để cung hiến cho Thánh Tâm Chúa Giêsu. Đặc biệt, ngang qua đời sống cộng đoàn, các thành viên phải xây dựng tình liên đới huynh đệ đại đồng, để chia sẻ, cảm thông, đón nhận và tôn trọng sự khác biệt của mỗi người trong Dòng.
Sau hết, Năm Thánh là cơ hội quý giá để mỗi thành viên trong Dòng mở lòng đón nhận sự tha thứ của Thiên Chúa và quảng đại thứ tha lỗi lầm cho người anh em; tái khám phá lòng thương xót của Thiên Chúa, để nhận ra lòng thương xót hải hà vô bờ bến của Thánh Tâm Chúa Giêsu, qua đó đón nhận và kín múc muôn ơn lành từ bàn tay nhân từ của Thánh Tâm Người.
Quả thật, hành trình nên thánh không phải là ngày một ngày hai mà cả một đời người, vì mỗi người sinh ra đều mang trong mình một sứ mạng. Tất cả sứ mạng phải hướng đến sự trọn lành, là dấn thân vào con đường nên thánh, là đích đến lý tưởng, là chung cuộc của đời người. Vì thế, Nên thánh là lời mời gọi tha thiết cho mọi bậc sống trong Hội Thánh, vì mỗi người đều có phương thế và cách thức khác nhau để bắt chước mô mẫu nên thánh trọn hảo từ Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Nên thánh không chỉ hướng đến sự hoàn thiện bên ngoài: nhân cách, nhân bản và nhân phẩm mà còn hướng con người đến Đấng Hằng Sống, là Đấng Cực Thánh. Vì thế, trong Hồng ân Năm Thánh, mỗi thành viên trong Dòng Thánh Tâm Huế sống tâm tình: tri ân tình Chúa và khắc ghi tình người. Tri ân tình Chúa bằng tâm tình con thảo trước vị Thầy Chí Thánh Giêsu hằng luôn dìu dắt, hướng dẫn Hội Dòng bước đi vững vàng trên con thuyền sóng gió của thời cuộc. Khắc ghi tình người vì những hy sinh âm thầm của các bậc cha anh, như hạt giống gieo vào lòng đất, để ngày hôm nay Hội Dòng được lớn mạnh và thăng tiến dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Vì thế, bách chu niên là tiếng chuông nhắc nhở hậu thế phải mở rộng con tim, hướng tầm nhìn ra xa để trân trọng quá khứ, canh tân hiện tại và thích nghi với tương lai, bằng việc học hỏi thấm nhuần tinh thần của Dòng, thực hành và tôi luyện các nhân đức cần thiết, để mỗi giây phút trên hành trình tận hiến, luôn họa lại những bước chân của Chúa Giêsu trên đường tiến đến sự thánh thiện.
Hãy chạy đến với Thánh Tâm Chúa Giêsu để mỗi người được “vui mừng múc nước tận nguồn ơn cứu độ” (Is 12,3).
Kỷ niệm 100 năm thành lập Dòng – Tiến Hội
Huế xưa, dòng sông Hương trôi êm đềm
Mảnh đất linh thiêng, tiếng chuông ngân xa
Đức Cha Allys tâm hồn cao cả
Đem ánh sáng Tin Mừng đến nơi đây.
Dòng Thánh Tâm sinh ra giữa lòng Huế đô
Sứ mệnh cao cả, đốt cháy tâm hồn
Giảng dạy đạo lý, gieo mầm đức tin
Tình yêu Chúa Kitô, ngọn lửa thiêng liêng.
Trường An cổ kính, tiếng kinh nguyện cầu
Tu sĩ Thánh Tâm nguyện ước sắt son
Cống hiến đời mình cho Chúa yêu thương
Đem niềm tin đến với mọi con người.
Từ lớp học đến nhà thờ, bệnh viện
Tu sĩ Thánh Tâm, luôn hiện diện
Mang đến niềm vui, xoa dịu nỗi đau
Giúp người hoạn nạn, vượt qua gian nan.
Với tấm lòng khiêm tốn, yêu thương
Dòng Thánh Tâm Huế, mãi mãi trường tồn
Sứ mệnh cao cả, tình yêu vô bờ
Đem ánh sáng Tin Mừng đến muôn nơi.
Tiến bước trong tình yêu
Trăm năm hồng ân – Vinc. Kiên Vũ, CSC
Một trăm năm là thời gian không dài đối với lịch sử của Giáo hội, nhưng lại đánh dấu mốc trưởng thành cho một Dòng trên đất nước Việt Nam: Dòng Thánh Tâm Huế. Tuy rằng thời gian không dài, nhưng Dòng Thánh Tâm cũng đã trải qua biết bao thăng trầm với thời cuộc của đất nước. Dòng cũng chia sẻ và chứng kiến bao nỗi đau thương mà dân tộc Việt Nam phải chịu, và nhờ đó mà Dòng từng bước trưởng thành. Đánh dấu cho sự trưởng thành đó là dấu mốc 100 năm hồng ân mà Dòng đã và đang cử hành. Với chủ đề “Tiến bước trong tình yêu”, năm thánh này hứa hẹn sẽ là một khởi đầu mới cho chặng đường đầy hoa hồng phía trước của mỗi thành viên trong Dòng. Nhìn lại chặng đường đã qua, nhìn về hiện tại và hướng tới tương lai, quả thực, Dòng đã, đang và sẽ “tiến bước trong tình yêu”.
Nhìn về quá khứ: Tình yêu quan phòng
Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng,
Công trình Ngài xiết bao kỳ diệu!
Hồn con đây biết rõ mười mươi.
(Tv 139, 14)
Lời của Vịnh gia thật sự thấm đậm tâm tình của anh em Thánh Tâm khi chiêm ngắm công trình hình thành và phát triển của Dòng dọc dài suốt chặng đường lịch sử 100 năm qua. Sự quan phòng và yêu thương đã được Chúa thực hiện ngay từ những ngày khởi sự của việc thành lập Dòng, cả trước khi Đấng Sáng Lập là Đức Cha Allys sang Việt Nam. Tựa như việc Thiên Chúa chuẩn bị cho dân Israel xưa đón nhận hồng ân cứu độ, thì giờ đây, Thiên Chúa đã chuẩn bị cho sự thành lập ấy bằng cách gieo vào lòng Đức Cha Allys một tình yêu nồng cháy và khao khát truyền giáo mãnh liệt. Bằng chứng là Đức Cha Allys đã chọn lựa tham gia vào công cuộc truyền giáo từ khi còn rất trẻ, đã sang Việt Nam chỉ sau vỏn vẹn hai tháng chịu chức linh mục, và đã ở đây suốt quãng đời còn lại của Ngài. Cũng thế, trong suốt cuộc đời hoạt động của Ngài đã thấm nhuần tinh thần yêu mến và truyền giáo mãnh liệt. Ngài đã hiện thực hóa tình yêu tha thiết ấy với các linh hồn bằng việc thành lập các Dòng chuyên lo việc giáo dục thanh thiếu niên như Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm và Dòng Sư Huynh giáo giảng viên Thánh Tâm Chúa Giêsu (nay gọi là Dòng Thánh Tâm Huế), cũng như mời các dòng về Việt Nam cộng tác trong việc truyền giáo cho lương dân. Mặt khác, các hoạt động của Ngài trong suốt sứ vụ mục tử cũng đem lại những thành quả rất vĩ đại: số giáo dân tăng lên rất nhiều (khoảng 37000 người), các sinh hoạt trong giáo phận được nâng tầm và củng cố như đại hội Lavang, các trường tư thục… Như thế, Thiên Chúa quan phòng thực sự đã chuẩn bị cho Dòng Thánh Tâm Huế một Đấng Sáng Lập rất tận tình và xứng hợp, nhờ đó mà Dòng đã được khai sinh cùng với nhu cầu cấp thiết của Giáo hội cũng như xã hội.
Isaac Newton đã từng nói một câu rất nổi tiếng: “Tôi nhìn được xa hơn bởi tôi đứng trên vai của những người khổng lồ”. Câu nói ấy diễn tả đúng tâm tình của những đàn em đi sau, khi chứng kiến sự trưởng thành và thay đổi không ngừng trong quá trình phát triển của Dòng kể từ khi thành lập đến nay. Dòng có diện mạo như hôm nay là một sự nỗ lực rất lớn của những thế hệ tiền nhân trong Dòng cũng như các vị ân nhân xa gần. Nhờ có những viên đá sống động và cống hiến to lớn của các thế hệ cha anh mà Dòng mới có được thành quả như ngày hôm nay: những truyền thống và thói quen tốt lành, một kho tàng tinh thần và linh đạo vững vàng, những tấm gương mẫu mực trong đời sống tu trì… Được huấn luyện, thừa kế và phát huy những giá trị tinh thần đó là một niềm vinh dự và cũng là niềm tự hào của thế hệ đi sau. Quả thật, anh em Thánh Tâm đã và đang được đứng trên vai của những người khổng lồ để tiếp tục tiến bước. Nhìn về quá khứ, ta mới thấy được bàn tay yêu thương và quan phòng của Thiên Chúa thật diệu kỳ.
Sống giây phút hiện tại: Tình yêu gìn giữ
Thế nhưng, tu sĩ Thánh Tâm không được dừng lại ở quá khứ, không tìm thoả mãn ở những gì đã gầy dựng được. Trái lại, tu sĩ Thánh Tâm vẫn phải vững bước tiến lên với những hành trang đã sẵn có, đồng thời tìm cách phát huy và thích nghi truyền thống tốt đẹp của tiền nhân với hoàn cảnh mới của xã hội và giáo hội. Như thánh Phaolô đã từng nói: “Hãy tận dụng thời buổi hiện tại” (Cl 4, 5), tu sĩ Thánh Tâm không chỉ nhìn về quá khứ với niềm tri ân, mà còn biết tận dụng thời điểm hiện tại để thiện toàn chính mình, hầu biến mình thành những khí cụ tốt lành của Thiên Chúa.
Nhìn lại những thời điểm gian khó, tưởng chừng như Dòng sẽ không còn tồn tại, nhưng với sự gìn giữ và yêu thương của Chúa, cùng với sự khôn ngoan của các bậc tiền nhân nhờ sự soi sáng của Thánh Thần, Dòng đã tìm lại được sức sống, tu sĩ Thánh Tâm lại càng thấm thía tình yêu gìn giữ mà Chúa đã dành cho Dòng. Quả thế, qua dòng thời gian với bao thăng trầm, Dòng đã và đang được Thiên Chúa vun trồng và cắt tỉa để sinh nhiều hoa trái hơn. (x. Ga 15,2) Qua những nốt lặng trong quá trình phát triển đó, tu sĩ Thánh Tâm mới càng thêm bức thiết và trân quý đặc sủng mà Đấng Sáng Lập đã đem đến cho mình, đồng thời càng thêm mong mỏi tìm cách phát huy những hoa trái ân sủng mà mình đã nhận được cho tha nhân. Bởi lẽ, tu sĩ Thánh Tâm ý thức rằng: những ân sủng đó chính Thiên Chúa đã dành sẵn cho mỗi tu sĩ Thánh Tâm không phải vì công kia việc nọ mình đã làm nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Thiên Chúa (x. 2Tm 1,9)
Nhìn về tương lai: Tình yêu hy vọng
Hơn thế nữa, tu sĩ Thánh Tâm lại càng lạc quan hơn vào tương lai. Khi mang lòng tri ân quá khứ, cố gắng hết mình ở hiện tại, tu sĩ Thánh Tâm có quyền hy vọng đầy tràn vào một tương lai với sự hướng dẫn của Thánh Thần. Tu sĩ Thánh Tâm mong muốn xây dựng một tương lai tươi sáng của Dòng, nơi mà mỗi tu sĩ thực thi sứ mạng của mình với một tình yêu căng tràn, với sự hiền lành, lòng thương xót và hiền lành đậm đà theo gương Thầy Chí Thánh. Hơn nữa, Tu sĩ Thánh Tâm cũng ý thức mình được chọn gọi giữa muôn người là nhờ tình yêu luôn đi bước trước của Thánh Tâm Chúa Giêsu và khao khát lan toả tình yêu tới muôn dân như lệnh truyền Euntes Docete – Hãy đi giảng dạy muôn dân (Mt 28,19). Đây không chỉ là mơ ước của bao bậc tiền nhân, nhưng còn là mong ước của toàn Dòng.
Như thế, với khẩu hiệu “Tiến bước trong tình yêu”, tu sĩ Thánh Tâm không chỉ nhìn về quá khứ với niềm tri ân tình yêu quan phòng, tự hào và nỗ lực hơn với tình yêu Thánh Tâm luôn gìn giữ, mà còn mang theo trong mình một tình yêu hy vọng vào tương lai. Thiết tưởng rằng, khẩu hiệu ấy càng giúp tu sĩ Thánh Tâm ý thức sâu sắc hơn về “Tình Yêu”, sống tốt tinh thần của năm thánh mà Dòng đã và đang lãnh nhận. Ước mong sao với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, với sự cầu bầu của Đức Maria và các thánh, mỗi tu sĩ Thánh Tâm sẽ ngày càng thêm gắn bó với “Tình Yêu Thánh Tâm”, luôn hợp nhất với nhau hầu làm triển nở hạt giống tình yêu mà mình đã lãnh nhận cho Giáo hội và thế giới hôm nay.
Đường Nên Thánh – Tiến Dâng
Thiên Chúa mời gọi tất cả mọi người nên thánh và nên giống như Ngài là Đấng Thánh. Lịch sử Hội thánh cho thấy, có vô vàn người thuộc mọi bậc sống khác nhau đã nên thánh như thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu nên thánh với Con Đường Bé Nhỏ, Thánh Phanxicô Assisi nên thánh trong tinh thần nghèo khó… Với hoàn cảnh riêng của mình, các Ngài đã nên thánh cũng bằng con đường riêng đó của mình. Chúng ta cũng có thể nên thánh bằng con đường riêng của chính chúng ta.
Đương nhiên đó là con đường không dễ đi, nhưng Thánh Phanxicô Assisi nói: “Hãy bắt đầu làm điều nhỏ bé và bạn sẽ thấy sự vĩ đại trong đó.” Và tôi nghĩ rằng, chúng ta cũng hãy khởi đầu việc này với những việc nhỏ bé qua việc chu toàn bổn phận của chúng ta…
Dòng Thánh Tâm Huế, 100 năm hình thành với bao biến cố thăng trầm nhưng các tu sĩ của Dòng vẫn trung thành chu toàn sứ mạng mà Đức Cha Tổ Phụ đã truyền lại. “Hãy đi giảng dạy cho muôn dân’’ là châm ngôn mà Đấng Sáng Lập muốn các tu sĩ của Dòng thi hành và ngài cũng muốn tu sĩ Thánh Tâm nên thánh ngang qua việc thực thi sứ mạng đó.
Hiến pháp Dòng, điều 2 nêu rõ: “Tu sĩ Thánh Tâm mang sứ mạng loan báo Tin Mừng, đặc biệt qua việc giảng dạy đạo lý Kitô giáo cho các tín hữu và anh chị em lương dân.”
Để thực hiện và để nên thánh qua sứ mạng đó, Hiến Pháp Dòng, điều 3 nêu rõ: “Đấng Sáng Lập đã muốn cho các tu sĩ Thánh Tâm được cung hiến cho Thánh Tâm Chúa, để mặc lấy tâm tình của Ngài là lòng thương xót, sự hiền lành và khiêm nhường, ngõ hầu trở nên tông đồ của Tình yêu Thiên Chúa.” Đó chính là con đường nên thánh mà các tu sĩ của Dòng đã đi, đang đi và vẫn hằng bước đi qua bao thế hệ.
Với sứ mạng và linh đạo đó, tu sĩ Thánh tâm luôn ý thức mình được thiêu đốt với cùng ngọn lửa yêu mến Thiên Chúa và phần rỗi các linh hồn, cũng như tấm gương hiền hậu và khiêm tốn của Đấng đã đến phục vụ chứ không phải để được phục vụ. Tu sĩ Thánh Tâm cũng luôn có tâm tình của những người con bé nhỏ sống trong niềm tín thác và tri ân Cha nhân lành.
Lòng thương xót là hành trang đầu tiên giúp tu sĩ Thánh Tâm nên thánh. Thánh Tâm Chúa Giê-su là nguồn mạch mọi sự thương xót. Tu sĩ Thánh Tâm cũng phải biết chạnh lòng thương mọi người, nhất là những người nghèo của Tin Mừng. Chạnh lòng thương để lên đường đến với người nghèo của Chúa. Chạnh lòng thương phải là động lực thúc đẩy Tu sĩ Thánh Tâm thi hành sứ mạng truyền giáo mà Đấng Sáng Lập Dòng đã truyền lại. Tu sĩ Thánh Tâm không phân biệt hay loại trừ bất kỳ ai đến với Thánh Tâm Chúa là nguồn tình yêu. Do vậy, tu sĩ Thánh Tâm, trước hết phải mang lấy tâm tình của Chúa, phải cảm nghiệm được lòng thương xót của Ngài, để từ đó, lan tỏa lòng thương xót của Chúa đến với tha nhân.
Là một tông đồ của Thánh Tâm Chúa Giêsu, Tu sĩ Thánh Tâm cũng phải biểu lộ tình yêu Thánh Tâm ngang qua chính đời sống của họ, ngang qua sứ mạng truyền giáo qua việc giảng dạy đạo lý Kitô giáo cho mọi người. Thánh Têrêxa nói: “Tôi muốn rằng mọi người đều cảm nhận được lòng thương xót của Chúa qua hành động của tôi.” Đó cũng là khát khao của mỗi Tu sĩ Thánh Tâm, là chất xúc tác giúp họ gần Chúa và nên giống Chúa hơn.
Sự khiêm nhường là hành trang thứ hai trên con đường nên thánh của tu sĩ Thánh Tâm. Điều này được biểu lộ trong đời sống cộng đoàn. Tu sĩ Thánh Tâm xác tín Cộng đoàn huynh đệ là tổ ấm sống động và bác ái được củng cố tùy theo mức độ họ tăng triển trong đức tin và đức cậy, nhờ việc cùng nhau tìm thánh ý Chúa, thương mến nhau, giúp tăng thêm lòng quý chuộng nhau, đỡ nâng gánh nặng cho nhau bằng cách tha thứ và quên mình, bằng cách góp chung các đức tính cá nhân, thực hành các lời khuyên Phúc Âm trong cùng một lý tưởng sống và tông đồ, nối kết tình bằng hữu đích thực.
Sự Khiêm Nhường này cũng được các tu sĩ Thánh Tâm diễn tả ngang qua sứ mạng của mình trên cánh đồng truyền giáo Việt Nam. Lễ giáo Việt Nam vốn đề cao đức khiêm nhường, coi khiêm nhường như một yếu tố của đạo làm người. Trong xử thế, khiêm nhường là chìa khóa mở lòng người ta, gây nên thiện cảm. Nhờ thiện cảm, người ta dễ chấp nhận ta, và dễ để nghe lời ta nói. Tu sĩ Thánh Tâm phải trổi vượt hơn về đức tính này. Tu sĩ Thánh Tâm luôn canh cánh bên mình lời dạy của Thầy Giêsu: “Hãy học với Thầy, vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29) và luôn nhớ rằng, sự khiêm nhường của người truyền giáo không phải chỉ là một đức tính nhân bản, mà còn phải là một nhân đức được chia sẻ từ sự khiêm nhường của Đức Kitô.
Sự Hiền Lành là hành trang thứ ba để nên thánh. Tu sĩ Thánh Tâm mang lấy nơi mình sự hiền lành theo gương Đức Giêsu và được biểu lộ không chỉ hiền lành bên trong nhưng còn cả bên ngoài nữa. Bên ngoài, họ luôn nhẹ nhàng trong lời nói, sẵn sàng lắng nghe, khiêm tốn học hỏi và đón nhận những góp ý của người khác. Ở đời sống nội tâm, họ luôn cố gắng đặt tâm hồn trong Chúa để được bình an, cảm thông và tha thứ cho người khác… Hiền lành và Khiêm nhường không phải là áp lực hay quy tắc phải tuân theo, mà là sống trong tinh thần tự nguyện vì tình yêu thương.
Đặc biệt, trong năm thánh mừng bách chu niên thành lập Dòng, Tu sĩ Thánh Tâm được mời gọi: “Tiến bước trong tình yêu” cũng có nghĩa là tiến bước trên con đường nên thánh qua tình yêu, qua sứ mạng Chúa trao ban. Chính là tình yêu và ân sủng của Thánh Tâm Chúa, đã luôn đồng hành và nâng đỡ Dòng Thánh Tâm trong suốt 100 năm hiện diện và phát triển. Mỗi bước đi của Dòng đều phản ánh bàn tay quan phòng của Chúa, dẫn dắt và bảo vệ từng thành viên trong hành trình nên thánh. Chính Thánh Tâm Chúa khơi dậy trong mỗi tu sĩ lòng lòng thương xót, sự hiền lành và khiêm nhường để họ can đảm và quyết tâm bước theo Ngài. Cũng nhờ tình yêu thương và sự hướng dẫn của Thánh Tâm Chúa, các tu sĩ có thể vượt qua thử thách, trung thành với sứ mạng và mục tiêu cao cả của Dòng. Tình yêu của Thánh Tâm Chúa là nguồn sức mạnh vô biên, giúp mỗi Tu sĩ Thánh Tâm trở thành khí cụ đắc lực của tình yêu Chúa trong sứ mạng mang Chúa đến với tha nhân.
Mừng hồng ân năm thánh, chúng ta hãy cầu nguyện cho Dòng Thánh Tâm Huế và cho mỗi Tu sĩ của Dòng, để họ luôn chu toàn sứ mạng của mình cách tốt đẹp và vui mừng tiến bước trong tình yêu, bước tiếp trên con đường nên thánh mà Cha trên trời đã mời gọi họ chọn và bước đi.
DẤU ẤN THÁNH TÂM – Phêrô Nguyễn Đình Quang
Trời mưa rả rích, rơi tí tách bên mái hiên, trận mưa cuối thu tê tái, da diết làm đông lạnh những mảnh hồn cô đơn của cô cậu tân sinh viên. Mưa Huế, qua cái nhìn của thi sĩ là những áng văn, tứ thơ tuyệt đẹp. Đối với nhạc sĩ mỗi giọt mưa mang một nốt trầm bổng của một bản giao hưởng tuyệt tác. Cũng trong màn mưa ấy, có kẻ lại chật vật với phòng trọ xụp xuệ, ẩm ướt, chật hẹp. Thi thoảng cũng tỉnh giấc bởi cơn mưa xối xả làm mái tôn kêu lộp độp hay những vết thủng làm nước giọt nơi cạnh giường.
Lật lại kí ức, quay ngược thời gian của nhiều năm về trước, cậu sinh viên chân ướt chân ráo với một cái vali đi nhập học. Huế chào đón cậu ta bằng một trận bão, lụt lịch sử. Những ngày đầu tiên ấy, cậu sinh viên kia cô đơn nơi góc trọ, màn mưa và cơn bão đã khơi lên sự nhớ nhà và cô đơn đến cùng cực của một tâm hồn non xanh. Tưởng chừng cái hố cô đơn ấy sẽ mãi sâu hoắm, nhưng đến một ngày cậu tìm ra được “nguồn sáng” sưởi ấm cuộc đời cậu của những năm tháng sinh viên, nguồn sáng ấy mang tên “Thánh Tâm”.
Sinh viên Công giáo Huế không ai là không biết Dòng Thánh Tâm, nơi cưu mang và an ủi những tấm lòng yếu ớt, củng cố Đức tin cho những kẻ tội lỗi sa ngã nơi giảng đường đại học. Thật tình cờ cho cậu sinh viên ấy, Chúa đã cứu cậu, sưởi ấm cậu bằng “Ngọn lửa Thánh Tâm”. Những tháng đầu cậu ta tự nhốt mình nơi căn phòng trọ, nơi mà cậu ta cho là an toàn. Cậu không giao lưu, không bạn bè, với bản tính nhút nhát và tự ti cậu ta sẽ ra sao nếu dòng đời vẫn lằng lặng trôi một cách vô tình như thế?
Rồi đến một ngày, sau đợt bão lụt, nhà trọ của cậu ngập nặng, sự cô đơn biến thành tuyệt vọng, đồ ăn và thức uống bị ẩm ướt, mốc meo. Hôm đó có một đoàn cứu trợ đi qua, cậu lấy hết can đảm, ra nhận quà cứu trợ. Sau khi nghe đám người nói chuyện thì cậu mới biết đó là đoàn cứu trợ bão lụt của Dòng Thánh Tâm do Cha đặc trách và các bạn sinh viên thực hiện. Lúc đó dường như “Ơn Chúa” đổ tràn trên cậu, cậu lân la lên Facebook và tìm cách liên hệ với Dòng Thánh Tâm và các bạn Sinh viên Công giáo. Sau đó cậu được Cha đặc trách gọi điện và mời gọi cậu tham gia sinh hoạt cùng nhóm sinh viên Công giáo.
Hóa ra, mọi người không khô khan như cậu nghĩ. Hóa ra nhà Dòng không khó gần hay tỏ ra khó chịu khi cậu đến. Trái lại, cánh cửa nhà Dòng luôn rộng mở, luôn chào đón tất cả những ai chạy đến với nhà Dòng, điều này làm cho cậu liên tưởng đến “Trái Tim Chúa” luôn rộng mở, bao dung, tha thứ cho kẻ tội biết ăn năn sám hối. Hóa ra, khi trái tim tìm được chân lý của cuộc đời, nó sẽ mở cửa và đón nhận tình yêu và yêu hết mình. Thời gian thấm thoát trôi, cậu sinh viên kia tham gia hăng say tất cả các hoạt động của sinh viên và của nhà Dòng. Chúa đã ban cho cậu nhiều hơn cậu mong muốn, lên năm ba đại học, cậu được mọi người tín nhiệm cân nhắc lên vị trí trưởng ban đại diện. Cậu tín thác, cậy tin và trao hết mọi sự cho Chúa, cậu để Chúa tự do vẽ nên những nét mực theo ý Ngài và Chúa đã nhậm lời cậu. Khi được làm việc với quý Cha và quý Thầy, cậu cảm nhận rõ hơn về hơi ấm của chữ “yêu” mà Dòng Thánh Tâm mang đến cho cậu. Nơi đây cậu không cô đơn, cậu được quý Cha và quý Thầy chỉ dạy, khuyên bảo, nâng đỡ và an ủi về vật chất cũng như tinh thần. Chúa đã làm phép lạ trên cuộc đời cậu ngang qua nhà Dòng. Khi cậu tìm hiểu rõ hơn về nguồn gốc và sứ mạng của Dòng, cậu càng say đắm vào nguồn mạch tình yêu trong Thánh Tâm Chúa. Qua quý Cha, quý Thầy, cậu kín múc được nguồn ân sủng dồi dào, quý vị đã bồi đắp đời sống “Đức Tin” cho cậu, đã vực dậy và cứu cậu ra khỏi căn phòng trọ mà cậu từng làm nơi căn cứ cho sự vô cảm.
Khép lại những năm tháng nơi giảng đường đại học, cậu lao mình vào công việc. Hôm nay trời đổ mưa, vẫn trong căn phòng trọ, nhưng ở một nơi khác lạ. Cậu nhớ về năm tháng tươi đẹp nơi mái nhà Thánh Tâm. Nơi lưu giữ tuổi hồng và sức trẻ của cậu, cậu nhớ về Huế và nhớ về Dòng Thánh Tâm Huế. Hình ảnh yêu thương của năm tháng đó vẫn luôn in hằn vào trái tim cậu. Cảm ơn mái nhà Thánh Tâm đã nuôi dạy, nâng nỡ, cưu mang biết bao nhiêu thế hệ sinh viên như chúng con. Nhà Dòng vừa là người Mẹ với một trái tim ấm áp, là bờ vai rộng lớn của người Cha và cũng là người Thầy đạo hạnh lắng nghe, thấu hiểu những tiếng lòng tội lỗi.
Dù bây giờ đã đi làm xa, “Thánh Tâm” luôn luôn nằm trong tim cậu và cậu tin rằng Thánh Tâm là một tình yêu đặc biệt luôn nằm trong trái tim mỗi cô cậu sinh viên đang sinh sống và học tập tại Huế. Một điều đặc biệt mà cậu muốn gửi gắm đến các bạn học sinh, sinh viên, những ai đang tìm hiểu, đắn đo về nơi lưu giữ thanh xuân đại học. Hãy đến với Dòng Thánh Tâm – nơi lưu giữ thanh xuân uy tín nhất, tuyệt vời nhất.
Mừng kỉ niệm “Năm Thánh”-100 thành lập Dòng Thánh Tâm Huế. Thay lời cho tất cả các bạn sinh viên đã từng, đang học tập và làm việc tại Huế, chúng con xin khắc cốt ghi tâm công ơn to lớn của nhà Dòng. Công ơn trời bể ấy không một giấy mực nào ghi cho hết. Chúng con chẳng biết làm gì hơn, chúng con chỉ biết cầu xin Thiên Chúa chúc lành và đổ đầy ân sủng “Thánh Tâm Chúa” xuống trên quý Cha, quý Thầy và những vị ân nhân, thân nhân đã giúp công giúp sức đào tạo chúng con. Kính chúc quý vị tràn đầy sức khỏe, niềm vui, bình an và thành công trên mọi dự định công việc. Chúng con cũng xin thắp nén hương lòng tri ân tới Đức Cha tổ phụ, quý Cha và quý Thầy đã yên nghỉ, nguyện xin Thiên Chúa ân thưởng Nước Trời cho các Ngài.
Vị Bề Trên âm thầm – Dominicius
Đức Cha Đôminicô Cẩn hi sinh,
Chúa trao sứ vụ, nghĩa tình yêu thương.
Giữa đời bão tố khôn lường,
Người gieo hạt giống, soi đường đức tin.
Bề trên tiên khởi, giữ gìn,
Dòng Thánh Tâm Huế, phúc lành đượm sâu.
Xây đời với đức nhu cầu,
Tận tâm giáo huấn, mạch sâu ân tình.
Qua bao sóng gió quẩn quanh,
Hết tình nhẫn nhục, chẳng đành bước lui.
Gặp gian khó, vẫn ngọt bùi,
Tấm lòng kiên định, một đời vững tin.
Thánh Tâm Huế giữa thánh kinh,
Nối dài tình Chúa, giữ gìn phúc ân.
Bao tâm hồn, dạ trong ngần,
Tiếp nối sứ mạng, chuyên cần sớm hôm.
Công ơn Đức Cha vun trồng,
Ngàn năm còn mãi, cõi lòng thiết tha.
Một đời sáng tựa trăng ngà,
Người gieo ân đức, đời ta ơn người.
Trải bao gian khó trăm điều,
Nối dài sứ vụ, dấu yêu đậm đà.
Ơn lành Chúa đã ban ra,
Dẫn đường soi lối, bao la nghĩa tình.
Một trăm năm đó thâm sâu,
Công ơn tiền bối, nhuộm màu thánh thiêng.
Xin cho tiếp bước nối liền,
Thánh Tâm Huế mãi trung kiên sáng ngời.
Niềm vui gặp gỡ – Kỷ niệm ngày Đức cha JB Nguyễn Bá Tòng thăm Dòng Thánh Tâm Huế 6/11/1933
Ts. Mart. Nguyễn Nhật, CSC
I. Niềm vui của Giáo hội Việt Nam
Kể từ khi đạo thánh Đức Chúa Trời được truyền bá đến đất Việt từ năm 1533 thì mãi tới 400 năm sau tức năm 1933 xứ này mới có giám mục Việt Nam tiên khởi: Đức Cha Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng. Sự kiện này đem lại niềm vui to lớn cho người Công giáo Việt Nam. Bởi vì, đây không chỉ là việc bổ nhiệm thông thường trong Giáo Hội nhưng còn là đánh dấu bước trưởng thành của Giáo hội Việt Nam. Thực ra, việc bổ nhiệm giám mục người bản xứ cho giáo đoàn truyền giáo đã được đức cha Ingoli, thư ký thánh bộ Truyền giáo đề xuất từ nhiều thế kỷ trước . Hơn thế, cha Đắc Lộ khi về Rôma để phúc trình cho Tòa Thánh còn mạnh dạn đề xuất thành lập hàng giáo phẩm tại Việt Nam . Tuy nhiên phải mãi đến những năm đầu thế kỷ XX vấn đề này mới được xúc tiến qua thông điệp Rerum Ecclesiae của Đức Giáo Hoàng Piô XI. Khi nghe tin Tòa Thánh bổ nhiệm cha Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng thuộc Hạt Đại diện Tông tòa Sài Gòn làm làm Giám mục Hiệu tòa Sozopolis in Haemimonto, giữ chức Phó đại diện Tông Tòa với quyền kế vị Hạt Đại diện Tông Tòa Phát Diệm thì các tín hữu Công giáo trong nước Việt Nam đều phấn khởi vui mừng. Vì từ đây Nước Việt mình có Đức Giám mục là người Việt Nam. Không khí vui mừng đó thể hiện trên khuôn mặt mỗi người và trong từng công việc để đón tiếp Đức Tân giám mục, không chỉ sau khi tấn phong mà cả trước đó. Cụ thể là tại Sài Gòn Đức Cha Mossard Mão gửi thư luân lưu cho toàn giáo phận, chỉ thị trong suốt tháng 5: Các linh mục khi dâng lễ, phải thêm lời cầu Chúa Thánh Thần ban ơn riêng cho Đức Cha Nguyễn Bá Tòng. Ngày 11-06-1933, Đức cha JB Nguyễn Bá Tòng được tấn phong Giám mục tại Rô-ma. Sau khi được tấn phong niềm vui ấy lại được nhân lên gấp bội trong Giáo hội Việt Nam và niềm vui ấy được biến thành hành động qua việc nhiều nơi mời Đức Tân giám mục ghé thăm.
2. Đức cha JB Nguyễn Bá Tòng tới Huế
Sau khi thăm các nơi thì nhận lời mời của các đấng bậc trong giáo phận Huế, Đức tân Giám mục đã ra Huế và thăm nhiều nơi tại giáo phận này. Chuyến đi này mang nhiều ý nghĩa vì đã thể hiện tinh thần yêu mến của Đức cha giành cho giáo phận Huế cũng như làm thỏa lòng mừng vui của giáo hữu trông đợi Đức cha bấy lâu. Đức cha Đa Minh Hồ Ngọc Cẩn trong báo Nam Kỳ địa phận trong số 17 đã có bài tường thuật lại sự kiện này rất sinh động và chi tiết.
“Từ ngày nghe tin Tòa Thánh chọn cha J.B. Tòng làm Giám mục, thì khắp cả nước Việt Nam đâu đó đều phở lở vui mừng và ước trông cho đặng gặp mặt Người, để tỏ chút tình mừng vui cho thỏa. Bởi vậy địa phận Huế khi vừa nghe tin người gần ra thì ai nấy đều hỏi han cho biết đích ngày để đến chào bái. Đến ngày mồng một Novembre (11) mới được tin chắc Người sẽ ra tới Huế là ngày mồng 5 tháng Novembre vậy ông Denis Lê Phát An đành dâng xe hơi đưa người ra và có ông ra với nữa lài có cha Matthêu Đức được phép đi với. Sớm mồng 3 ở Sài Gòn ra đi, tối thì tới nơi Nha Trang, hồi đó mới hay đường quan thường xe hơi không đi được, vì cầu Tuy an và cầu Sông cầu bị bão ngày mùng 1 tháng Novembre thì đà hư rồi. Bấy giờ ông Denis mới đánh dây thép ra Huế cho hay xe phải đi đàng thượng (là đàng ở Ninh hòa lên Ban-mê-thuột qua Pleiku rồi xuống Quy Nhơn) cho nên phải đi đàng quanh, chiều tối mồng 5 mới tới nơi Huế.
Vì vậy Đức cha Địa phận Huế đã có lời cùng cha sở Chánh Tòa là họ Phủ Cam truyền cho họ dọn cuộc nghinh tiếp tân giám mục cho bỉ bàng. Họ nghe lịnh truyền liền vội vàng trần thiết trong nhà thờ như ngày lễ trọng nhất. Ngoài nhà thờ từ sân cho đến đàng quan hơn 300m có cột cờ tam sắc cờ ngũ hành đóng 2 hàng, để lại có một cái thê lâu. Chiều lại đồ 4 giờ thì ba hạng đồng nhi nam nữ y phục trang hoàng cầm cờ xí lô hổi, quạt tàn, sắp đội ngũ sẵn sàng để nghênh tiếp Đức cha vào nhà thờ. Họ Trường An ở cách 4 cây số cùng cờ xí đội ngũ có hơn 40 đem xuống Phủ Cam hiệu đội mà nghinh tiếp cho long trọng. Chiều hôm ấy các cha xung quanh thành Huế cùng tựu tại Tòa Giám mục để hầu rước Đức cha. Còn đức cha Chabanon, cha bề trên Lemasle và 8 cha tây nam khác cũng 3 cha Dòng Chúa Cứu Thế vào đến Thừa Lưu cách Huế 53 cây số mà đón Đức Cha. Tại Thừa Lưu thì cha sở là cha Kiệm cũng dọn bái hạ trước cửa ngõ và có đội đồng nhi nam y phục gia lễ cầm cờ chực sẳn, hầu khi xe Đức Cha ra ngang đó thì đón rước vào nhà cha một chút rồi các Đấng sẽ ra với nhau.
Nếu mọi đềi xuôi thuận thì chiều hôm ấy vui vẻ là dường nào, vì sẵn sàng mọi việc, trời cũng tối, thiên hạ tựu tại Phủ Cam đông thì để xem Đức Giám Mục An Nam. Hay đâu vì đàng xấu xe đi trễ, không thể ra tới Huế chiều hôm ấy được. Trông càng lâu càng vắng ai về nhà nấy; cha sở Thừa Lưu phải đãi các đấng một bữa cơm hôm, rồi 2 xe hơi đưa các đấng lại về Huế.
Về tới huế được tên dây thép chắc Đức Cha sẽ ở Tourane ra Huế mai mồng 6, nên mai ấy cùng có 2 xe hơi đưa Đức Cha Chabanon và một ít cha vô đón đường một đội. Vừa 9 giờ rưỡi Đức cha ra tới Huế các chuông nhà thờ Phủ Cam đều cất tiếng, ai nấy anh liền biết Đức cha đã ra tới nơi.
Trước hết xe Đức cha thẳng vào Tòa giám mục, xuống xe, Đức cha Chabanon và các cha lại chào kính truyện trò hỏi han một hồi thì Đức Cha qua thăm Đức Cha già Allys Lý. Trong lúc ấy cha sở Phủ cam truyền cho họ dàn đội ngũ, cờ xí nghi vệ để qua Tòa Giám mục mà rước Đức cha vào Nhà thờ Chính Tòa. Vậy tới quá 10 giờ rưỡi thì rước Đức cha qua nhà thờ. Vào tới nhà thờ Đức cha làm mọi lễ nhạc như khi Đức giám mục đi viếng địa phận. Ban phép lành vừa xong Đức cha theo ý Đức cha địa phận, trỏ mặt ra để diễn thuyết ít lời vắn tắt tỏ lòng biết ơn và xưng thật rằng Địa Phận Huế từ các đấng đến giáo hỉu đều tỏ tình với người lắm và người xưa rày từ khi mới bắt đầu làm quen với các cha Huế là từ năm 1908, thì hằng có lòng mến các cha Huế cách riêng và đã được Đức cha già Allys cho làm Prêtre honoraire de la Mission Huế thì lấy làm hân hạnh lắm diễn thuyết vừa dứt lời thì dàn đội ngũ đưa Đức cha sang Tòa Đức Khâm Sứ Tòa Thánh.
Đức cha Khâm sứ và Đức cha Thành (Mgr Marcon) ra chào rước Đức cha vào đến. Đức cha Thành là Đức cha chính địa phận Phát Diệm đã vào ngày mồng 4 cho đặng đón rước Đức cha phó mình.
Đến 12 giờ Đức cha Khâm sứ đãi yến mừng Tân Giám mục, các đấng dự yến cả thảy 20. Mãn tiệc Đức cha Khâm sứ đứng dậy nói mấy lời chúc mừng Đức cha tiên khởi An nam và cũng mừng cho việc giảng đạo bên Annam đã đặng kết quả mĩ miều như thế là nhờ công lao các Đấng Dòng-sai đã đào luyện nên thầy cả bổn quốc hẳn hoi. Vừa dứt lời, Đức Tân Giám mục đứng dậy, rút trong bọc ra một bài, đọc cung đằm thắm tỏ tình mũi dạ, ai nấy chăm nghe, lòng thầm khen ngợi. Cốt ý bài là cám ơn Đức Khâm sứ thay mặt Tòa Thánh, cám ơn các Đấng Hội Dòng sai vì Annam đã làm nên chi cũng nhờ ơn Tòa Thánh và công linh Hội Dòng-sai tác thành đào luyện. Sau hết Người xin giúp lời cầu nguyện cho Người được làm cho kham phận sự Tòa Thánh mới phỉ nguyền. Xong cuộc tiệc, ra khỏi bàn cơm mới bàn việc: Việc là việc thăm nơi nọ viếng nơi kia, và việc xuất hành ra Phát Diệm. Đức Cha Thành định ra Phát Diệm sớm thứ năm, nên việc thăm viếng Đức Cha Tòng định thế này: Chiều hôm đó (thứ hai) lên thăm Dòng R.T. Trái Tim tại Trường An, sáng thứ ba cũng lên làm lễ tại đó, 10 giờ mai thăm trường Cao đẳng, rồi về dự yến tại tòa Giám mục: chiều lại đi thăm trường Lý đoán, vv. Qua ngày thứ tư vừa 10 giờ rưỡi vào chầu vua rồi đi Phước Môn sáng thứ năm ra Phát Diệm, ấy là chương trình.”
Thật thế, cuộc viếng thăm của Đức cha Tòng đã đem đến niềm vui cho Giáo phận Huế, vì Đức cha đã thân tình với giáo phận từ lâu. Hơn thế, cuộc viếng thăm này thể hiện tình hiệp thông trong Giáo Hội.
3. Đức cha J.B Nguyễn Bá Tòng thăm Dòng Anh em hèn mọn Rất thánh Trái Tim
Như đã nói ở trên, khi đến Huế thì Đức cha J.B Tòng có ý định thăm Dòng Anh em hèn mọn Rất thánh Trái Tim tại Trường An. Quả vậy, khi được tin đức tân giám mục sẽ đến thăm thì cả Dòng rất vui mừng hân hoan vì được ngài ghé thăm. Và đây quả là sự kiện trọng đại của Dòng vì từ khi thành lập cho đến nay thì đây dịp đại hạnh khi có các đấng bậc ghé thăm. Đức cha Đa Minh Hồ Ngọc Cẩn khi đó đang làm bề trên Dòng đã tường thuật như sau:
Cha Bề trên đã báo cho các thầy biết trước, nên đã dọn nhà thờ trọng thể như ngày lễ cả nhứt. Lại cũng dọn Salon trang hoàng rực rỡ, có tượng lớn chân dung Đức cha treo giữa : trước sân thì cờ tam sắc bay phất phới tỏ dấu mừng rỡ đợi trông. Đức Cha tới nơi, còi xe vừa reo tiếng thì hai chuông nhà thờ cất giọng vang lừng, các cha các thầy đưa thẳng hai đức cha vào nhà thờ. Đoạn đờn hòa hát bài Christus Vincil và lời nguyện cho Đức cha. Xong rồi đưa Đức cha vào Salon, Nhà Dòng chúc mừng Đức Cha: Trước hết một thầy nói ít lời bằng tiếng ta, đoạn đọc một bài bằng tiếng Pháp, kế một bài chúc và một bài bằng tiếng ta, sau thì một bài hát bằng tiếng Pháp nữa. Hát vừa dứt bài, pháo nổ tưng bừng, tay vỗ lốp đốp. Đức cha liền đứng dậy, mặt mũi tươi cười, đáp lại mấy lời cảm ơn cùng khen ngợi và chúc cho ai nấy hằng nhớ đến mục đích Dòng, mà đi đàng nhân đức và học hành cho thông thái, để làm việc bậc mình cho sáng danh Chúa cùng làm ích cho linh hồn người ta. Nay xin đăng ra đây bài chúc và bài hát bằng tiếng ta để đọc giả chơi giải trí:
Cúi lạy Đức Cha quyền cao chức cả
Kể từ ngày tiếng chuông La-mã
Đánh đưa tin khắp cả hoàn cầu
Thì đâu đó khắp cả ngũ châu
Đều dội tiếng mừng khen Nam Việt.
Khen rằng: Có tay hùng kiệt,
Có gã tài ba,
Làm linh mục vốn hẳn số đa,
Làm Giám mục nay vừa có một.
Một ấy là ai,
Chẳng khai cũng biết,
Ấy là hoa thơm ở nơi đất Việt,
Ấy là đèn rạng chiếu giữa trời Nam.
Tri lực khả kham,
Đức tài сụ thể.
Quốc âm bặt thiệp so mấy kẻ,
Pháp ngữ thông minh sánh nào ai?
Giảng giải đâu nghe cũng sướng tai,
Ủi an ai nấy đều mát dạ.
Văn chương nhuần nhã,
Quốc ngữ thông minh.
Đặng cử vào hội sửa kinh,
Đặng làm thơ ký tòa Giám mục,
Làm trợ giáo trường Latinh đà có lúc,
Làm bề trên sở Bà rịa cũng gặp thời
Thông đạo thạo đời,
Quan thân dân chuộng.
Lòng vạy vò đà khéo uốn,
Tính cứng cỏi há chẳng chìu,
Đoàn chiên thảy thảy mến yêu,
Lương giáo người người kính phục.
Tân Định kia hạnh phúc,
Gặp cha sở vừa lúc văn minh,
Thánh đường nọ quang vinh,
Ấy nhờ ai ra tay tu bổ.
Nguy nga đồ sộ,
Rực rỡ trang hoàng
Bàn thờ cẩm thạch quí khôn đang,
Ảnh tượng đèn hoa xinh quá ngộ,
Ai xem vào đó, ai ngó tới đây,
Liền biết nơi Nam Việt ít kẻ tày,
Mà giữa Đông Dương cũng cho là hiếm.
Vậy nay: Ý trên sâu nhiệm,
Phép Chúa diệu mầu.
Muốn ra tay mở nước Chúa trị ở Á châu,
Bèn ghé mắt đến Đấng chăn chiên Tân Định.
Thánh Tòa hạ lệnh,
La mã sắc phong
Rằng: Linh mục Gioan Nguyễn Bá Tòng,
Làm vít-về phó miền Phát Diệm.
Điện bảo chuông kêu mấy điểm,
Hoàn cầu đâu đỏ châu tri,
Việt Nam tiếng dội tam kỳ,
Trong nước khắp nơi mầng rỡ.
Mầng là mầng cho xứ sở,
Rỡ là rỡ tiếng Quốc dân,
Dẫu bên lương cũng biết vui mầng
Con nhà giáo hả ai lãnh đạm
Chúng con nay phận hèn tuy chẳng dám
Nhưng Đức Cha đã khấng đến viếng thăm
Đôi chữ tình thâm,
Xin dâng lấy thảo.
Mừng Đức cha an hảo,
Đi Roma lãnh mão ngọc gậy vàng
Nay trở về mọi sự hỉ hoan,
Ra Phát Diệm nhơn dân phở lở,
Chúc Đức cha an ngôi lạc sở.
Mừng Phát Diệm gặp thuở thái bình,
Trăm điều trăm việc khương vinh,
Mỗi bậc mỗi người phỉ nguyện.
Chúc sống an mọi chuyện,
Khi thác thỏa hai bề,
Ở đời đã tiếng trọng danh đề,
Hậu thế lại công huy phước rạng.
Thiên tuế! Thiên thiên tuế!
Sau khi thăm Dòng vào ngày 6 thì hơn nữa ngày hôm sau Đức cha lại lên Dòng để dâng thánh lễ cầu nguyện cho Dòng. Sau đó ngài đi thăm nhiều nơi khác.
4. Chung lời hoài niệm
Sự kiện Đức cha Tòng đến thăm Dòng Thánh Tâm Huế là một sự kiện trọng đại vì nó đánh dấu bước phát triển của Dòng. Thật thế, kể từ thời điểm Đức cha J.B Nguyễn Bá Tòng thăm thì Dòng mới được 8 tuổi (1925-1933) mà đã có chỗ đứng nhất định trong giáo phận Huế. Thật thế, khi đọc bài tường thuật của cha Đa Minh Hồ Ngọc Cẩn thì thấy được rằng sự học của các anh em trong Dòng đã phát triển như thế nào rồi. Thật vậy, Lịch sử của Dòng còn ghi lại thì ngày 8/9/1929 mới có 6 tu sĩ khấn dòng và giai đoạn này Dòng có coi sóc 4 trường. Dầu thế, với sự nhiệt tâm của cha bề trên và mọi thành viên thì Dòng cũng đóng góp một phần đáng kể cho sự phát triển của Giáo phận Huế trong giai đoạn này dù còn non trẻ. Qua sự kiện Đức cha J.B Nguyễn Bá Tòng thăm dòng, chúng ta thấy được sự ưu ái và quan tâm của các đấng bậc dành cho Dòng cũng như sự ưu tư của các ngài đối với với giáo dục. Kỷ niệm 91 năm ngày Đức cha JB Nguyễn Bá Tòng đến thăm Dòng chúng ta thêm tự hào về truyền thống của Dòng và tri ân công khó của các bậc cha anh đi trước. Hơn thế, chúng ta càng phải sống đặc sủng của Đấng sáng lập cách sung mãn và luôn ghi nhớ đến mục đích của Dòng, như lời Đức cha JB Nguyễn Bá Tòng đã dạy: “Chúc cho ai nấy hằng nhớ đến mục đích Dòng, mà đi đàng nhân đức và học hành cho thông thái, để làm việc bậc mình cho sáng danh Chúa cùng làm ích cho linh hồn người ta.”
CÁC CHỦ ĐỀ SUY NIỆM TRONG NĂM
THÁNG 9/2024: THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU – NGUỒN MẠCH SỰ SỐNG
• Câu Kinh Thánh: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6).
• Ý lực sống: Sống tâm tình tri ân các bậc Tiền nhân.
THÁNG 10/2024: THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU – TÌNH YÊU PHỔ QUÁT
• Câu Kinh Thánh: “Cứ hỏi cha ngươi là người sẽ dạy, thỉnh bậc lão thành, họ sẽ nói cho nghe” (Đnl 32,7).
• Ý lực sống: Sống và làm chứng cho Tin Mừng qua đặc sủng và linh đạo của Dòng.
THÁNG 11/2024: THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU – TÌNH YÊU HIỀN LÀNH
• Câu Kinh Thánh: “Hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29).
• Ý lực sống: Yêu mến và tuân giữ luật Dòng trong tinh thần của Đức Kitô.
THÁNG 12/2024: THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU – TÌNH YÊU KHIÊM NHƯỜNG
• Câu Kinh Thánh: “Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng” (Is 53,7).
• Ý lực sống: Sống đời thánh hiến với niềm vui và hy vọng.
THÁNG 01/2025: THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU – TÌNH YÊU THƯƠNG XÓT
• Câu Kinh Thánh: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,34).
• Ý lực sống: Sống thánh hiến như một lời mời gọi nên thánh giữa lòng Hội Thánh.
THÁNG 02/2025: THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU – TÌNH YÊU KIÊN NHẪN
• Câu Kinh Thánh: “Đức Giêsu thấy đám đông dân chúng thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt” (Mt 9, 36).
• Ý lực sống: Sống thánh hiến như một lời mời gọi nên thánh giữa lòng Hội Thánh.
THÁNG 3/2025: THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU – TÌNH YÊU THA THỨ
• Câu Kinh Thánh: “Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi” (Mt 12,20).
• Ý lực sống: Sống thánh hiến như một lời mời gọi nên thánh giữa lòng Hội Thánh.
THÁNG 4/2025: THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU – TÌNH YÊU BIẾN ĐỔI
• Câu Kinh Thánh: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
• Ý lực sống: Đời sống cộng đoàn, một sáng kiến tuyệt vời của Thiên Chúa, họa lại sự sống thần linh tình yêu Ba Ngôi.
THÁNG 5/2025: THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU – TÌNH YÊU HIỆP NHẤT
• Câu Kinh Thánh: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người. Nếu chúng ta kiên trì chịu đựng, chúng ta cũng sẽ hiển trị với Người” (2 Tm 2, 11-12a).
• Ý lực sống: Hiệp thông với Thiên Chúa và anh chị em.
THÁNG 6/2025: THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU – TÌNH YÊU HY SINH
• Câu Kinh Thánh: “Anh em hãy mang lấy gánh nặng cho nhau, như thế là anh em chu toàn luật Đức Kitô” (Gl 6,2).
• Ý lực sống: Sống và thực hành linh đạo Thánh Tâm Chúa Giêsu trong đời sống hằng ngày.
THÁNG 7/2025: THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU – TÌNH YÊU PHỤC VỤ
• Câu Kinh Thánh: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45).
• Ý lực sống: Sống khiêm tốn, bác ái, khó nghèo và nhiệt thành tông đồ.
THÁNG 8/2025: THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU – TÌNH YÊU TRUNG TÍN
• Câu Kinh Thánh: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (Mt 10,9).
• Ý lực sống: Hãy để Thần Khí đổi mới và mặc lấy con người mới theo hình ảnh Thiên Chúa.
THÁNG 9/2025: THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU – TÌNH YÊU HY VỌNG
• Câu Kinh Thánh: “Bấy giờ Đức Giêsu mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh” (Lc 24,45).
• Ý lực sống: Đừng tìm lợi ích cho riêng mình, hãy tìm lợi ích cho người khác.
SUY NIỆM TĨNH NGUYỆN
I. NHÌN LẠI LỊCH SỬ DÒNG VỚI LÒNG TRI ÂN
“Hãy nhớ lại những ngày xưa tháng cũ
và ngẫm xem từng thế hệ qua rồi
Cứ hỏi cha ngươi là người sẽ dạy
Thỉnh bậc lão thành họ sẽ nói cho nghe”
(Đnl 32,7)
Hôm nay, chúng ta quy tụ nơi nguyện đường thân thương của Dòng để cùng nhìn lại những chặng đường hình thành và phát triển của Dòng Thánh Tâm Huế, một hành trình đầy ân sủng và thử thách, để từ đó dâng lên Thiên Chúa lời tri ân sâu sắc. “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu.” (1 Tx 5,18)
Quãng thời gian 100 năm chẳng là bao so với lịch sử của dân tộc và nhân loại, nhưng với lịch sử một Dòng thì đó là một quãng thời gian đáng trân trọng và ghi nhớ. Giữa dòng chảy của thời gian với bao giông tố bão bùng; giữa bao ồn ào náo động của thời cuộc, cùng với Mẹ Giáo Hội, con thuyền của Dòng Thánh Tâm Huế đã không ngừng vượt sóng ra khơi suốt 100 năm qua và vẫn đang từng ngày ra khơi cùng Thầy Giêsu.
gược dòng thời gian, Dòng chúng ta được Đức Cha Eugène Marie Joseph Allys Lý thành lập vào năm 1925, trải qua 100 năm hiện diện trên mảnh đất Việt Nam thân yêu này. Chúng ta cùng tạ ơn Chúa vì những ân ban hay cả những thử thách, và tiếp tục cầu nguyện cho Dòng, để mỗi chúng ta luôn sống đúng với linh đạo của Đấng sáng lập là ra đi để mang nhiều linh hồn về cho Chúa quan châm ngôn: “Hãy đi giảng dạy muôn dân” (Mt 28,19)
Nhìn lại hành trình 100 năm hình thành và phát triển của Dòng Thánh Tâm Huế, chúng ta không khỏi ngỡ ngàng trước biết bao biến cố thăng trầm, những bước chuyển mình mạnh mẽ để thích nghi và phát triển không ngừng. Từ những ngày đầu gian khó, qua những thử thách cam go của thời cuộc, đến những bước tiến vượt bậc trong thời kỳ đổi mới, tất cả đều minh chứng cho tình yêu và sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa. Hôm nay, chúng ta cùng nhau ôn lại chặng đường lịch sử ấy với tâm tình tri ân sâu sắc, để từ đó thêm vững tin vào tình thương Chúa và can đảm bước tiếp trong hành trình sứ vụ “Hãy cảm tạ Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” (Tv 118,1).
Thời kỳ thành lập và bước đầu phát triển – Một sự khởi đầu đầy hy vọng (1925-1955)
“Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc 1,49)
Những ngày đầu thành lập Dòng Thánh Tâm Huế là những ngày đầy gian nan và thử thách. Từ việc xin phép Tòa Thánh, mua đất, xây dựng cơ sở vật chất, đến việc tìm kiếm và đào tạo những ơn gọi đầu tiên, tất cả đều đòi hỏi sự hy sinh, lòng kiên trì và niềm tin mãnh liệt vào Chúa Quan Phòng. Giữa muôn vàn khó khăn, ý hướng thành lập Dòng của Đức Cha sáng lập, việc hình thành và xây dựng cơ sở Dòng của cha Đôminicô Hồ Ngọc Cẩn, vị bề trên tiên khởi, đã cùng với anh em trong Dòng vượt qua tất cả để xây dựng một cộng đoàn vững mạnh, một ngôi trường đào tạo những giáo viên tương lai cho Giáo Hội.
Thời kỳ gian khó (1955-1990)
“Tôi đã gặp gian truân khốn khổ, nhưng Chúa đã cứu giúp tôi” (Tv 116,3)
Sau năm 1955, đất nước bị chia cắt, chiến tranh liên miên, Dòng Thánh Tâm Huế bước vào một giai đoạn đầy khó khăn và thử thách. Nhiều cơ sở vật chất bị mất mát, nhiều tu sĩ trẻ phải rời bỏ Dòng, hoạt động giáo dục bị hạn chế, đời sống tu trì gặp nhiều trở ngại. Tuy nhiên, chính trong gian khó, lòng tin của anh em vào Chúa càng thêm mạnh mẽ. Các tu sĩ đã không ngừng tìm kiếm những cách thức mới để thích nghi với hoàn cảnh, tiếp tục sứ vụ giáo dục và loan báo Tin Mừng.
Thời kỳ hồi sinh và phát triển (1990-2025)
Nơi Thánh vịnh 138 gợi lên trong mỗi chúng ta tâm tình biết ơn:
“Lạy Chúa, xin dâng lời cảm tạ, Vì Ngài đã nghe lời miệng con xin”
Sau những biến chuyển của thời cuộc, từ năm 1990 đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, Dòng Thánh Tâm Huế cũng bước vào một giai đoạn hồi sinh và phát triển mạnh mẽ. Nhờ ơn Chúa, sự quan tâm của các đấng bản quyền, và sự đồng lòng của anh em trong Dòng, các cơ sở vật chất được xây dựng và mở rộng, ơn gọi tu trì gia tăng, hoạt động giáo dục và bác ái xã hội được đẩy mạnh. Dòng không chỉ đào tạo các giáo viên, mà còn mở rộng sứ vụ đến với các bạn trẻ, các em thiếu nhi, những người nghèo khổ, góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.
Lời kết
Hòa cùng tâm tình tri ân, cùng với tác giả Thánh Vịnh 136, chúng ta cùng cảm nghiệm:
“Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ,
Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”.
Nhìn lại lịch sử 100 năm của Dòng Thánh Tâm Huế, chúng ta thấy rõ bàn tay quan phòng của Thiên Chúa luôn đồng hành và nâng đỡ Dòng. Qua bao thăng trầm của lịch sử, Dòng vẫn đứng vững và phát triển không ngừng, nhờ ơn Chúa và lòng tri ân của biết bao thế hệ tu sĩ.
Hôm nay, chúng ta cùng nhau dâng lời tạ ơn Thiên Chúa vì muôn vàn hồng ân Chúa đã thương ban cho Dòng Thánh Tâm Huế trong suốt 100 năm qua. Xin Chúa tiếp tục đồng hành và chúc lành cho Dòng, để Dòng mãi là dấu chỉ tình yêu của Thánh Tâm Chúa Giêsu giữa lòng Giáo Hội và xã hội. Xin cho mỗi tu sĩ trong Dòng luôn biết sống tri ân, trung thành với đặc sủng, và hăng say dấn thân cho sứ vụ, để lời Chúa được loan báo và tình yêu Chúa được lan tỏa đến mọi người.
“Chúc tụng Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng từ trời cao ban xuống cho chúng ta muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần.” (Ep 1,3)
Nhìn lại đôi dòng lịch sử để mỗi người anh em Thánh Tâm chúng ta bày tỏ tâm tình tri ân và cảm tạ Thiên Chúa, Đấng là tình yêu vì Ngài đã đoái thương chọn mỗi người chúng ta là tông đồ của Trái Tim Ngài. Thiên Chúa đã luôn yêu thương gìn giữ, bảo vệ và ban muôn ơn lành trên Dòng chúng ta. Chính nhờ bàn tay Ngài mà Dòng đã lớn lên từng ngày trên mảnh đất cố đô Huế thân thương nhưng cũng đầy nắng gió. Đây cũng là dịp thuận lợi để mỗi người chúng ta bày tỏ lòng biết ơn đối với quý anh đã đi trước. Giữa bao khó khăn thử thách nhưng các anh vẫn kiên cường bảo vệ Dòng để hôm nay đây, Dòng lớn lên mạnh mẽ và trổ sinh hoa trái trên mảnh đất cố đô này. Mỗi người chúng ta hãy cúi đầu cảm tạ và xin phúc lành của Chúa. Cảm tạ ơn Chúa và tri ân mọi người vì hồng ân được hiện diện. Từng hơi thở, từng nhịp sống và từng phút giây trong đời là những ân huệ Chúa thương ban cho chúng ta.
“Hãy dâng Chúa bài ca cảm tạ,
Gảy khúc hạc cầm mừng Thiên Chúa chúng ta”
(Tv 147)
II. SỐNG LINH ĐẠO THÁNH TÂM VỚI LÒNG NHIỆT THÀNH
Cuộc sống trần gian quá vô thường
Chúa hằng mời gọi sống yêu thương
Thiên đàng rộng mở khi con sống:
HIỀN LÀNH, THƯƠNG XÓT với KHIÊM NHƯỜNG
Lạy Chúa, chúng con đang sống trong một thế giới xa lìa những giá trị thiêng liêng và ra như muốn loại Thiên Chúa ra khỏi “cuộc chơi” của phận người, một thế giới đánh mất nguồn gốc của mình đến độ vong thân, một thế giới đang dùng sự dữ, sự thù hận, của chủ nghĩa cá nhân là khí giới để tiêu diệt và tàn sát lẫn nhau. Bối cảnh thương tâm ấy là lời khẩn thiết mời gọi chúng con, những tu sĩ Thánh Tâm, phải tiếp nối sứ mạng cứu độ của Đức Giê-su trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa Cha. Chúng con được mời gọi phải trở về nguồn cội của mình, là chính tình thương, lòng nhân ái và sự dịu dàng của Thiên Chúa. Đó là một vị Thiên Chúa tình thương, một Người Cha giàu lòng thương xót, luôn yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho chúng con.
Năm Thánh mà chúng con sắp sửa khai mạc quả là dịp đặc biệt để chúng con sống những lời mời gọi trên đây của Chúa cách nhiệt thành hơn nữa ngang qua linh đạo của Dòng, đó là lòng thương xót, sự hiền lành và khiêm nhường. Có như thế, chúng con mới trở nên những tông đồ nhiệt thành của Thánh Tâm Thiên Chúa tình yêu.
Giờ này đây, chúng con cùng nhau suy gẫm về sự hiền lành, lòng thương xót và khiêm nhường của Thiên Chúa qua dung nhan của Đức Giê-su. Đó như là một lời nhắc nhở, một phương thức tuyệt diệu, để chúng con sống linh đạo của Dòng cách nhiệt thành hơn trong Năm Thánh này.
1. Một Thiên Chúa rất hiền lành
Sự hiền lành của Chúa Giêsu không phải là sự thỏa hiệp với thế gian. Chúa không im lặng trước sự dữ. Chúa đã từng lên án gắt gao thói giả hình và gian tà của nhóm biệt phái. Chúa đã từng xô đuổi con buôn ra khỏi đền thờ. Sự hiền lành của Chúa là vì công lý mà chịu nhiều thiệt thòi, không kháng cự. Vì dám nói lên sự thật mà Chúa phải chết nhục nhã trên cây thập giá, nhưng Chúa không oán hận, mà còn xin cùng Chúa Cha tha cho họ vì họ không biết việc họ làm.
Sống được đức hiền lành của Chúa Giê-su quả là một lý tưởng và không ít khó khăn trước những nghịch cảnh, đặc biệt là trong bối cảnh xã hội hôm nay vốn đề cao chủ nghĩa cá nhân. Bên cạnh đó, chính bản thân con người, do hệ quả của tội nguyên tổ và tội riêng đã làm cho con người chìm ngập trong sự dữ, ở dưới ách thống trị của ma quỷ, lý trí ra lu mờ, ý chí yếu đuối, linh hồn không làm chủ được thân xác. Do đó, theo bản năng con người rất khó kiềm chế được vật dục thứ ba là “cái tôi” của mình.
Lạy Chúa Giê-su, Chúa hiểu rất rõ thân phận của chúng con, nên Chúa đã đồng cảm và mời gọi chúng con rằng: “Hãy mang lấy ách của Tôi, hãy học với tôi, vì Tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Trong năm thánh này, với niềm xác tín vào ân sủng của Chúa và sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, chúng con tin rằng chúng con có thể sống được đức hiền lành một cách nhiệt tâm hơn nữa. Đó là khi chúng con biết tận lực cố gắng, biết chấp nhận sự thiệt thòi vô điều kiện, không nhắm tới tư lợi bản thân. Đó là lúc chúng con biết tự giải thoát khỏi tính ích kỷ, “cái tôi” nhỏ nhen, nhất là, biết luôn kết hợp liên lỉ với Đức Giê-su, ở sâu trong Người như cành nho gắn liền thân nho (x. Ga 15, 5).
2. Một Thiên Chúa rất đỗi khiêm nhường
Hạ mình là con đường của Thiên Chúa và là khuôn mặt của Ngài. Thiên Chúa khiêm nhường luôn tìm đường đi xuống, cúi xuống cách thấp nhất, để nâng nhân loại sã ngã lên. Do đó, những ai kiêu căng hay tìm cách nâng mình lên sẽ chẳng bao giờ gặp được Ngài. Vì thế, chẳng lạ gì khi Chúa Giêsu nói: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống…”
Khiêm nhường là bằng chứng của sự tự chủ vững vàng, của khả năng chiến thắng cái tôi và coi thường sự sở hữu. Quyền sở hữu tạo nên nỗi lo sợ bị mất mát. Những người cho rằng họ đang sở hữu điều gì đó sẽ luôn mang tâm trạng nghi ngờ, cảnh giác. Có một nghịch lý là khi ta không cố chiếm giữ điều gì hết, thì ta lại nhận được mọi điều tốt đẹp, mà ai cũng yêu quí và khát mong.
Sự hiền lành thường đi song song với khiêm nhường. Hiền lành để tha nhân dễ gần ta và khiêm nhường để ta dễ gần tha nhân, tạo cơ hội cho ta đến với tha nhân và tha nhân đến với ta. Kẻ kiêu căng thường phân loại để đối xử. Người khiêm nhường thì đối xử mọi người như nhau. Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường nên ai cũng có thể tiếp xúc với Ngài, và Ngài cũng có thể gặp gỡ trao đổi với mọi người.
Lạy Chúa, hồng ân Năm Thánh quả là dịp không thể tốt hơn để mỗi anh em Thánh Tâm chúng con tự kiểm điểm lại đời sống của mình, cách riêng là về đức khiêm nhường. Chúng con dường như đều thuộc nằm lòng về linh đạo của Dòng. Thế nhưng, lắm khi sự hiền lành dường như chỉ mới dừng lại ở nơi lời nói nơi môi miệng chúng con mà thôi, thậm chí đã không ít lần môi miệng chúng con không có sự hiền lành đích thực. Đó là khi chúng con buông những lời chua cay, gắt gỏng, nóng nảy, giận hờn, gièm pha, trích chích, nhạo cười, chê bai lẫn nhau…gây nên những rạn nứt, bất hòa trong cộng đoàn.
Lạy Chúa Giê-su, xin đạp chúng con xuống để con biết mình chẳng là gì ngoài là thụ tạo yếu đuối trong lòng bàn tay Chúa, và chúng con cũng chẳng có gì ngoài xác đất vật hèn này với muôn ơn lành đến từ lòng từ ái vô biên của Chúa. Chỉ khi ý thức được như thế, chúng con mới sống được đức khiêm nhường thực sự, và cùng nhau “tiến bước trong tình yêu” ngang qua những phúc lành mà Chúa tuôn đổ cho chúng con cách đặc biệt trong Năm Thánh này.
3. Một Thiên Chúa giàu lòng xót thương
Trong Tông Sắc ấn “Dung Mạo Lòng Thương Xót”, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô viết: “Giáo Hội biết rằng, trong một thời đại vừa chất chứa những niềm hy vọng to lớn vừa có đầy những mâu thuẫn nghiêm trọng, nhiệm vụ hàng đầu của Giáo Hội là dẫn đưa tất cả mọi người đi vào mầu nhiệm cao cả của Lòng Thiên Chúa Xót Thương, bằng cách chiêm ngưỡng dung mạo của Đức Kitô. Giáo Hội được mời gọi trước tiên trở nên chứng nhân đáng tin cậy của lòng thương xót, bằng cách tuyên xưng và sống lòng thương xót như là chủ điểm trong mạc khải của Chúa Giêsu Kitô” (số 25)
Đặc biệt, Thánh Kinh đã xác tín rằng Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên (x. Tv 145,8-9).
Trong sứ vụ của mình, Đức Giê-su đã mặc khải cho chúng ta trái tim tràn đầy yêu thương của Thiên Chúa Cha qua ba dụ ngôn: Con chiên bị lạc (Lc 15, 4-7); Đồng bạc bị đánh mất (Lc 15,8-10); và Người Cha nhân hậu (Lc 15,11-32). Cả 3 dụ ngôn ấy đều cho thấy trái tim Thiên Chúa khắc khoải vì những gì thuộc về Ngài bị mất, và niềm hoan lạc vô biên khi tìm lại được.
Quả thật, Đức Giê-su chính là hiện thân của lòng thương xót của Thiên Chúa. Một Gia-kêu lún sâu trong nghề thu thuế với nhiều bất lương, bất hảo; một Mat-thêu từng làm tay sai cho đế quốc để thu sưu cao thuế nặng trên dân tộc mình; một Phê-rô, môn đệ thân tín, đã chối Thầy cách tàn nhẫn, phi nhân bản đến 3 lần. Ấy thế mà tất cả họ đã được biến đổi để nên những vị thánh khi tiếp cận với một Đức Giê-su rất hiền lành, bao dung, đầy lòng thương xót đối với mọi hạng người.
Lạy Chúa, trong Năm Thánh này, xin cho mỗi người chúng con xác tín cách mãnh liệt hơn nữa, rằng Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng con, cho dù chúng con là những kẻ tội lỗi nặng nề. Xin cho con luôn biết tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa để con quyết tâm trở về với Chúa mỗi khi lạc xa đường chân lý. Xin cho con luôn biết xác tín rằng: Chúa sẽ vui mừng biết bao khi thấy con thật lòng ăn năn thống hối tội lỗi, vì chính tình yêu thương tha thứ của Chúa sẽ mang đến cho con niềm hạnh phúc bình an đích thực. Xin Chúa ban cho con trái tim nhân ái của Chúa, để con cũng biết yêu thương, tha thứ cho những anh em lầm lỡ và giúp đỡ họ trở về với Chúa. Nhờ đó, khi cùng nhau “tiến bước trong tình yêu”, chúng con sẽ không còn lầm đường lạc lối như những con chiên lạc, nhưng luôn được kết hợp mật thiết với Chúa và với nhau mà tiến về quê hương đích thực là Nước Trời vinh hiển.
III. SỐNG SỨ MẠNG VỚI TINH THẦN SÁNG TẠO
“Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng tôi” ( 2 Cr 5,14)
Chính tình yêu Đức Kitô thúc bách Đức Cha sáng lập bừng cháy ngọn lửa nhiệt thành đem Tin Mừng đến cho mọi người. Trong giờ phút này, chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại cuộc đời của Đức Cha như là dấu chỉ nguồn động lực thúc đẩy chúng ta can đảm dấn thân cho sứ mạng, cho dẫu hoàn cảnh thuận lợi hay khó khăn. Đồng thời, gương sáng mà ĐC để lại chính là kim chỉ nam cho mỗi anh em chúng ta tiếp tục tinh thần và sự nghiệp mà ngài đã dày công xây dựng.
1. Những gia sản Đức cha sáng lập để lại
Đức Cha sáng lập đã để lại nhiều gia sản quý báu cho Giáo phận, cách riêng cho Dòng Thánh Tâm Huế. Gia sản đó vô cùng to lớn bao trùm cả vật chất lẫn tinh thần.
Thứ nhất, chính vì quan tâm đến việc truyền giáo, đặc biệt trẻ em nghèo thất học mà Đức Cha đã thành lập hai Dòng. Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm, để lo cho việc giáo dục đức tin và văn hóa cho các thiếu nữ. Dòng Thánh Tâm Huế để lo việc giáo dục và đàng nhân đức cho các trẻ nam. Đây là hai gia sản tinh thần quý báu mà Đức Cha đã để lại cho Tổng Giáo phận Huế và cho Giáo Hội Việt Nam.
Thứ hai, chúng ta có thể kể đến gia sản của Đấng sáng lập là những nhân đức. Bài học về sự đơn sơ và giản dị được thể hiện qua bữa ăn chỉ có khoai, chén cơm và cá luộc. Bài học về sự can đảm, kiên trung khi Đức Cha kiên quyết ở lại với bổn đạo trong cuộc bách hại gay gắt. Bài học đạo đức thiêng liêng qua việc chiêm ngắm Chúa Giêsu Thánh Thể lâu giờ và siêng năng lần chuỗi Mân Côi. Đây chỉ là một số trong những bài học đã trở thành gia sản tinh thần mà Đức Cha đã để lại cho chúng ta.
2. Những nỗ lực của các bậc tiền nhân trong việc thực thi sứ vụ của Dòng
Quy tụ nơi đây, chúng ta cùng nhìn lại những nỗ lực không biết mệt mỏi của các bậc tiền nhân trong việc thi hành sứ vụ của Dòng. Những nỗ lực và thành qủa từ khi khai sinh lập Dòng, những khó khăn của thời cuộc và những hậu quả sau chiến tranh, dầu vậy, Dòng vẫn phát triển nhờ sự quan phòng của Chúa và nhờ vào bao vất vả hy sinh, công khó của bao người.
Mang trong mình lòng nhiệt thành loan báo Tin Mừng. Các bậc tiền nhân luôn sẵn sàng ra đi mở rộng phạm vi hoạt động. Không chỉ mở rộng số lượng trường học, nhưng còn mở rộng phạm vi địa bàn, phía bắc ra đến Quảng Bình, phía nam vào đến tận Sài Gòn. Mỗi nơi mà các bậc tiền nhân hiện diện luôn thấm đượm vất vả nhọc nhằn, khó khăn thiếu thốn nhưng không vì thế mà các ngài chùn bước trong sứ vụ của mình.
Ở khía cạnh tân sứ vụ, chúng ta có thể dõi theo những nỗ lực của thế hệ cha anh đã thực thi. Đã hẳn, xu hướng chung của con người luôn e ngại trước những điều mới mẻ, ngại đi ra khỏi vùng an toàn, ra chỗ nước sâu. Tuy nhiên, được Thánh Thần thúc đẩy, các bậc tiền nhân đã can đảm canh tân Dòng cho phù hợp với thời đại. Cuộc canh tân đầu tiên được thực hiện sau Công đồng Vaticanô II. Dòng chọn một số anh em để lãnh nhận chức Linh mục để phục vụ trong Dòng, tạo nên bước tiến triển mới vì trước tới nay chưa có tiền lệ như vậy. Cuộc canh tân thứ 2 diễn ra sau năm 1980. Các bậc cha anh đã nỗ lực không ngừng, miệt mài với thời gian để đến năm 2013, Dòng chính thức chuyển từ Dòng giáo dân sang Dòng giáo sĩ.
3. Sống sứ mạng trong tương lai với tinh thần sáng tạo
Chúng ta biết rằng, đời sống tu trì là thánh hiến và sứ vụ. Việc thánh hiến và sứ vụ được đặt trên nền tảng Đức Ki-tô, Đấng giàu lòng “thương xót, hiền lành và khiêm nhường.” Sự thánh hiến và sứ vụ song hành với nhau. Thánh hiến nghĩa là được sai đi. Mỗi dòng tu đều mang trong mình căn tính riêng, đó là đặc sủng của Đấng sáng lập, là linh đạo nên thánh và sứ vụ. Do đó, việc canh tân phải luôn trung thành với tinh thần và ý hướng của Đấng sáng lập. Qua việc trở về nguồn, tìm lại những giá trị uyên nguyên của Đấng sáng lập, về lịch sử nhà Dòng, về tinh thần và sứ vụ, để học hỏi và bổ trợ, nhằm xây dựng cộng đoàn tính khuôn mẫu của Đức Ki-tô.
Đồng thời, sứ mạng dòng của chúng ta phải có sự thích nghi với thời đại một cách khôn ngoan, để mỗi tu sĩ họa lại nét độc đáo cá vị với tinh thần sáng tạo trong cung cách phục vụ, tinh thần mới về lòng nhiệt thành trong cung cách giảng dạy. Thế hệ đi sau kế thừa kinh nghiệm thiêng liêng của Đấng sáng lập, nhưng cũng là thách đố và lời mời gọi chúng ta sống sứ mạng đó với tinh thần canh tân, hướng đi mục vụ cụ thể trước nhu cầu của thời đại, nhưng không đánh mất chiều kích thuộc về tinh thần Đấng sáng lập.
Trải qua bao thăng trầm thời cuộc, sứ mạng của Dòng luôn là âm hưởng vọng vang đối với người tu sĩ hôm nay. Bằng cảm thức thuộc về nhà Dòng, chúng ta can đảm tiến bước trong tình yêu với tinh thần sáng tạo ngang qua sự nhạy bén trước nhu cầu của thời đại. Phương thức truyền giáo của tu sĩ Dòng Thánh Tâm Huế cần họa lại tinh thần truyền giáo của Đấng sáng lập với một tinh thần mới mẻ, mang tính đột phá trong cung cách phục vụ. Người tu sĩ cần nuôi dưỡng lòng nhiệt huyết với Dòng, để chúng ta có thêm nguồn động lực vượt khó ngại khổ, tiến bước trong sứ vụ với niềm tín thác. Đồng thời không ngừng nâng cao sự hiểu biết về thánh khoa và xã hội nhân văn. Bởi vì, tri thức là khí cụ sắc bén giúp chúng ta nói về Chúa cho người khác. Bên cạnh đó, tu sĩ cần phát triển những kỹ năng, cởi mở và học hỏi, tìm tòi để thích ứng và phù hợp với hoàn cảnh của thế giới.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, chúng con tạ ơn Chúa vì biết bao ơn lành Chúa đã dành cho Dòng chúng con trong suốt 100 năm qua. Chúa đã ban cho chúng con một người Cha đầy nhiệt huyết, một trái tim thao thức phục vụ Giáo hội và cứu rỗi các linh hồn. Xin Chúa giúp chúng con luôn biết noi gương Đấng sáng lập trở nên những chứng nhân qua đời sống cầu nguyện và lòng nhiệt thành tông đồ, biết gìn giữ gia sản tinh thần của người và các vị tiền nhân đã để lại. Xin cho chúng con luôn tiến bước trong tình yêu, âm thầm phục vụ những con người mà Chúa trao phó, để chúng con làm sáng danh Chúa mỗi ngày một hơn.
CÁC GIỜ
PHẠT TẠ THÁNH TÂM
THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU – TÌNH YÊU PHỔ QUÁT
1. Mở đầu
– Làm dấu Thánh giá
– Hát kinh Chúa Thánh Thần: Cầu xin Chúa Thánh Thần….
Thinh lặng ít phút
– Lời dẫn
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, trong giờ phút linh thiêng này, anh em chúng con quy tụ nơi đây, trước sự hiện diện của Chúa, để suy ngắm tình yêu Chúa; một tình yêu trao hiến đến tận cùng cho nhân loại.
Lạy Chúa, khi chiêm ngắm Thánh Tâm Chúa, chúng con cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng con thật cao vời và lớn lao, vì chúng con thấy mình chẳng là gì để Chúa phải nhớ đến và bận tâm. Quả thật, chúng con chỉ là loài phải chết, nhưng Chúa lại đánh đổi mạng sống của Chúa đến giọt máu, giọt nước cuối cùng để cứu chúng con.
Lạy Chúa, xin uốn lòng chúng con nên giống Thánh Tâm Chúa, để chúng con biết sống bác ái yêu thương phục vụ và bao dung với mọi người. Xin cho chúng con một trái tim biết mở rộng để có thể đón nhận và mở ra với anh em, thay vì đóng khung trong quan điểm cố hữu của mình. Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng một cuộc sống chứng tá và bằng trái tim tràn đầy tình yêu Chúa.
Thinh lặng ít phút
Tin Mừng: Ga 2,13-22
Gần đến lễ Vượt Qua của người Do-thái, Đức Giê-su lên thành Giê-ru-sa-lem. Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả chiên cũng như bò, ra khỏi Đền Thờ ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.” Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân.
Người Do-thái hỏi Đức Giê-su: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế ?” Đức Giê-su đáp : “Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại.” Người Do-thái nói : “Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?” Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người. Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói.
Thinh lặng ít phút
• Hát: Lời Hằng Sống (298)
2. Suy Niệm 1: R.T.T.T.C.G.S là đền thánh Đức Chúa trời ngự
Cũng như các ngôn sứ, Chúa tỏ lòng tôn kính cách sâu sắc đối với đền thờ Giêrusalem. Ở đó, Chúa đã được thánh Giuse và Đức Maria tiến dâng. Lúc 12 tuổi, Chúa quyết định ở lại trong đền thờ để nhắc cha mẹ nhớ rằng Chúa phải lo việc của Chúa Cha. Trong quãng đời ẩn dật của Chúa, Chúa đều lên đền thờ mỗi năm ít là một lần để mừng lễ Vượt Qua. Đối với Chúa, đền thờ là nhà của Thiên Chúa Cha, là nhà cầu nguyện. Do đó, Chúa phận nỗ với những người buôn bán trong đến thờ, vì họ làm cho đền thờ ra ô uế. Sở dĩ Chúa xua đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi đền thờ, đó là vì lòng yêu mến nhiệt thành đối với Cha :”đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”. Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh “vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải thiệt thân (Ga 2,16-17).”
Ngay trước cuộc khổ nạn của Chúa, Chúa đã tiên báo sự sụp đổ của công trình kiến trúc nguy nga này, tại đó sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào. Chúa không hề có thái độ thù nghịch đền thờ, nơi mà chính Chúa đã giảng dạy những giáo huấn quan trọng. Trái lại, Chúa tự đồng hóa mình với đền thờ khi tự giới thiệu mình là nơi ở vĩnh viễn của Thiên Chúa giữa loài người. Chính vì vậy mà việc thân thể Chúa bị sát hại loan báo việc đền thờ bị phá hủy, điều đó cho thấy lịch sử cứu độ đã bước vào một thời đại mới “Đã đến giờ các ngươi sẽ thờ phượng Chúa Cha không phải trên núi này hay tại Giêrusalem, nhưng trong thần khí và sự thật”.
Lạy Thánh Tâm Giêsu, Chúa luôn sống bằng tình mến đối với Chúa Cha. Chính vì Cha và vì vinh quang của Cha mà Chúa đã đến trần gian. Đạo lý Chúa dạy chính là được Cha trao phó. Chúa đã sống cho Cha, tận tụy hoàn toàn với ý của Cha, sống bằng sự sống mà Cha thông chuyển. Sự hiệp thông này là sự hiệp thông trong tình yêu, làm cho Chúa sống cho Cha và vì Cha. Đời sống thể lý của Chúa và những nhịp đập của Trái tim xuất phát từ tình yêu, qua đó Chúa đón nhận thánh ý của Cha cách hoàn toàn tự do. Bằng cầu nguyện, Chúa đắm chìm bản thân trong tình yêu với Cha. Bằng việc dạy dỗ, hành động và hi sinh, Chúa nhắm đến việc tôn vinh Cha. Chúa ở trong Cha, lưu lại trong Cha, tình yêu của Cha tỏ lộ ra trong hoạt động tại thế đã bám rễ sâu trong Trái Tim Chúa đến độ cổ đọng lại thành một sự sống vĩnh cửu.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, chính từ Trái Tim Chúa mà lòng từ bi nhân hậu của Chúa Cha được thi thố, từ Chúa phản ảnh khuôn mặt Chúa Cha. Trái Tim Chúa luôn luôn đầy tràn Cha, múc lấy nơi Cha nền tảng cho mọi ý nghĩ, sức mạnh cho hành động, sự triển nở cho mọi cảm xúc và tâm tình của Chúa. Chính Chúa là đền thờ đích thực của Thiên Chúa, là nơi vinh quang của Chúa Cha ngự trị. Xin cho chúng con luôn biết gìn giữ con người chúng con, để xứng đáng là đền thờ sống động của Chúa Thánh Thần, và để được chính Chúa ngự trị khi chúng con tham dự Bàn Tiệc Thánh Thể.
Thinh lặng ít phút
• Hát: Tôn sùng Thánh Tâm (574)
3. Suy niệm 2: R.T.T.T.C.G.S là nhà tạm Chúa Chí Tôn
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Lời khẳng định của thánh Gioan quả là một huyền nhiệm, mang rất nhiều ý nghĩa về chính Ngôi Lời. Lời là cách thế mà Thiên Chúa hành động. Lời là điều mà con người phải nói về tất cả những gì đã được biết về Thiên Chúa thông qua những hành động của Ngài. Lạy Chúa Giêsu, Ngôi Lời chính là Ngài đã đến trần gian mang lời yêu thương cho chúng con. Vì yêu thương, Chúa hạ mình xuống để chia sẻ kiếp người với chúng con. Nơi hang đá Bêlem, Chúa chính là tình yêu bằng xương bằng thịt, có thể chạm tới được, thấy được và cảm nhận được của một thân xác bé bỏng đang rét run trong làn gió lạnh. Trên thánh giá, Chúa như một “tội nhân” nhưng lại dang tay ôm trọn cả nhân loại, tha thứ, bao dung và trao hiến cách trọn vẹn qua giọt máu và nước cuối cùng.
Lạy Chúa Giêsu, từ trời cao Chúa đã hạ mình xuống chính là để kéo chúng con lên và để thánh ý của Cha được thể hiện. Chúa muốn làm cho tất cả nên một như “Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha”. Chúa muốn chúng con được nhìn thấy vinh quang của Chúa, là “Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật”. Vinh quang đó đã theo Chúa lên đỉnh đồi Canvê. Trên đỉnh đồi ấy, Chúa đã đổ hết máu và nước đến giọt cuối cùng để phủ lấp, xóa bỏ tội lỗi của con người. Vì đối với Chúa, vinh quang của Thiên Chúa chính là con người được sống và sống dồi dào. Đó là tất cả những gì mà một tình yêu trao hiến còn sót lại. Từ đó, chúng con đã được tái sinh và được bước vào cuộc sống mới nhờ chính Thần Khí của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dùng chính máu của mình thay cho máu chiên bò mà dâng lên Chúa Cha hy lễ toàn thiêu mới, hầu mang lại ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng con, và cho chúng con trở nên xứng đáng để phụng thờ Thiên Chúa. Chúa đã đến và ở lại với chúng con để mỗi ngày nhờ đức tin và lòng mến, chúng con được đón rước Chúa vào lòng làm của ăn nuôi dưỡng linh hồn. Lạy Chúa, chính Trái Tim Chúa là nơi chứa chan mọi nguồn ơn phúc, tình yêu và lòng thương xót của Ba Ngôi để chúng con kín múc và hưởng dùng. Giờ đây, trước nhà tạm nơi Chúa đang ngự, xin ban thêm đức tin và lòng khao khát yêu mến Chúa để chúng con được hưởng mạch nước dồi dào là ơn thánh và lòng xót thương. Ước gì chúng con được biển đổi và trở thành môn đệ của lòng thương xót.
Thinh lặng ít phút
• Hát: Đến với Trái Tim (568)
4. Suy niệm 3: R.T.T.T.D.C.G.S là nhà Đức Chúa Trời và cửa thiên đàng
Khi thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem, Chúa Giêsu đã nói với người Do Thái rằng: “Các ông cứ phá huỷ Đền thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”, Thánh sử Gioan giải thích thêm: “Đền thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây chính là thân thể Người”. Khi chú giải những lời này, Đức Bênêđictô XVI nhấn mạnh rằng: “Thời gian của Đền thờ cũ đã qua. Một phượng tự mới sẽ đến trong một Đền thờ không do tay người phàm xây dựng. Đền thờ này chính là thân thể Đấng Phục Sinh, Đấng quy tụ muôn dân và kết hợp tất cả vào Bí tích Mình và Máu thánh Người”. Thật vậy, kể từ khi Chúa Kitô trỗi dậy từ cõi chết, các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi được Sách Công vụ Tông đồ mô tả: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng…. Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo như cầu” . Với những gì Sách Công vụ Tông đồ mô tả về cộng đoàn tín hữu tiên khởi, chúng ta nhận ra rằng Gia đình Giáo hội sơ khai sống mầu nhiệm hiệp thông với Thiên Chúa và với nhau bằng một tình huynh đệ gắn bó, lo cho nhau từ đời sống vật chất đến đời sống tinh thần. Tất cả ý định và chương trình hiệp thông của Thiên Chúa được thực hiện và hoàn tất trong mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô, Đấng là Con Thiên Chúa nhập thể, chết và phục sinh. Giao ước mới và vĩnh cửu được ký kết bởi chính máu của Chúa Kitô đổ ra trên thập giá. Nói cách khác, trong Chúa Kitô, nhờ hoạt động của Thánh Thần chúng ta trở thành những chi thể của cùng một Thân Mình mầu nhiệm của Chúa Kitô, nghĩa là hiệp thông với Chúa Kitô, họ trở thành anh em của nhau và trở thành những người con trong Người Con duy nhất của Cha trên trời. Trong bầu khí sống năm thánh bách chu niên, nhà dòng đã định hướng cho các thành viên “Tiến bước trong tình yêu”. Anh em chúng ta tin tưởng rằng với tình yêu thương của thánh tâm CGS và sự dẫn dắt của Chúa Thánh thần mỗi Tu sĩ Thánh Tâm được trao phó chuyển thông và tiếp tục đập nhịp yêu thương đi vào giữa lòng đời bằng một con tim biết dành trọn cho Thiên Chúa và tha nhân. Chúng ta sẽ viết tiếp những trang sử đẹp theo tinh thần của Đấng sáng lập trên con đường loan báo Tin mừng cứu độ. Không nhằm mục đích nào cho bằng đi vào cuộc tâm giao, gặp gỡ và gắn kết với Chúa Kitô, Đấng là trung tâm của sự hiệp thông giữa Thiên Chúa với nhân loại.
Thinh lặng ít phút
• Hát: Trái Tim Người (477)
5. Lời Nguyện
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, xin cho mọi thành phần trong Hội Thánh luôn cảm thấy hãnh diện vì được làm con Chúa, để cố gắng sống xứng đáng với ơn gọi này bằng một đời sống thánh thiện, hầu trở nên gương sáng cho anh em lương dân. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
Chúng con dâng lên Chúa Nhà Dòng chúng con. Xin ban cho mỗi anh em trong Dòng luôn sống tinh thần khó nghèo, trong sạch, hiền hòa và khiêm tốn, để mọi lời nói, việc làm của mỗi anh em đều mưu ích cho tha nhân và cho phần rỗi các linh hồn. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
Thánh Tâm Chúa phải chịu đau đớn, tan nát vì tội loài người. Xin cho mỗi người chúng con biết hoán cải mỗi ngày để Trái Tim Chúa bớt bị tổn thương và để chúng con được nên một với Chúa. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, vì yêu thương nhân loại mà Chúa phải chịu đau đớn khôn cùng. Xin cho tất cả chúng con biết cảm nghiệm được tình yêu bao la của Chúa, để sẵn sàng đáp trả bằng một đời sống hiến thân phục vụ. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
6. Kinh nguyện
– Kinh Kính Thánh Tâm Chúa Giê-su
7. Kết thúc: Kinh Trông Cậy
THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU – TÌNH YÊU HIỀN LÀNH
I. Mở đầu
1. Hát kinh Chúa Thánh Thần
2. Dẫn vào Giờ thánh
Lạy Rất Thánh Trái Tim Đức Chúa Giêsu, chúng con thành kính chiêm ngắm Trái Tim bầm dập vì đau đớn, mang một vết sẹo lớn vì bị đâm thâu, không còn bề ngoài nhẵn nhụi và nguyên vẹn nữa. Đó quả là Trái Tim đẹp nhất, tuyệt diệu nhất, vì đã yêu thương nhân loại đến tận cùng để mang lại ơn cứu độ và hạnh phúc cho con người chúng con. Trước tình yêu cao cả đó, chúng con vô ơn đã đành, đằng này, hằng ngày hằng giờ chúng con còn xúc phạm, còn sỉ nhục đến Chúa, đến tha nhân. Vậy chúng con dành giờ phút ngắn ngủi này ở bên Chúa, trước là để đền bù cho những bất xứng của từng người chúng con; sau là đền bù cho những người kém may mắn hơn chúng con khi không có điều kiện hay cơ hội gặp Chúa giờ này; và cuối cùng, là để chúng con kín múc nguồn phúc lành từ tình yêu Ngài.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, tháng 11, Giáo Hội hướng chúng con, những người còn đang sống, đến các Thánh Nam Nữ, đến các Thánh Tử Đạo Việt Nam thân yêu của chúng con, những người đã anh dũng hy sinh để làm chứng cho đức tin vào tình yêu của Đấng bị đâm thâu. Việc hướng chúng con đến các vị ấy, Giáo Hội như muốn nhắc nhở, động viên: chúng con cũng có cơ hội được như các ngài, nếu chúng con một lòng trung thành sống, làm chứng cho Chúa giữa trần gian này. Đồng thời, Giáo Hội cũng hướng chúng con đến các Đẳng Linh Hồn, họ không phải là những người xa lạ, nhưng là chính những người thân yêu của chúng con, là anh chị em của chúng con, do sự mỏng giòn yếu đuối mà khi ở trần gian, các ngài đã trót xúc phạm đến Chúa, nên giờ này đang phải chịu tẩy rửa trước khi vào Cõi Vĩnh Hằng trong Nước Chúa. Chính việc cầu nguyện của chúng con đem lại ơn ích rất lớn cho các ngài, giúp các ngài rút ngắn được thời gian thanh luyện. Tất cả những điều trên làm thành một Giáo Hội hiệp thông mà Chúa muốn chúng con bước theo trên hành trình đức tin.
II. Đền tạ
1. Suy niệm Lời Chúa theo Tin Mừng
Lời Chúa: Mt 11,28-30
Khi ấy, Đức Giêsu nói với dân chúng rằng: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.”
Suy niệm:
Sứ điệp Chúa dạy trong đoạn Tin Mừng thật rõ ràng: “Anh em hãy học với Tôi, vì Tôi hiền lành và khiêm nhường”. Hiền lành là dịu dàng, ngọt ngào, không thô bạo, không cứng cỏi. Hiền lành là nhân đức bao gồm tâm thế bên trong và đời sống bên ngoài. Tâm thế bên trong luôn êm ái, hoà nhã, nghĩ tốt về người khác, yêu thương, khoan dung và cảm thông; đời sống bên ngoài luôn nhẹ nhàng và tôn trọng. Người ở hiền ắt có hậu: “Ở hiền gặp lành”, hay “Cha mẹ hiền lành để đức cho con”.
Khiêm tốn là chấp nhận hạ mình, ở dưới như Gioan Tẩy Giả “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”. Khiêm tốn thể hiện qua lời nói, cử chỉ, hành động cách chân thành. Người khiêm tốn luôn biết lắng nghe, tìm thấy cái tốt nơi người khác.
Khi đưa ra lời mời gọi “Hiền lành – Khiêm nhường”, chính Chúa Giêsu đã sống triệt để các nhân đức ấy. Quả thật, Đức Giêsu hiền lành, dễ thương trong lời nói và việc làm. Người luôn yêu thương mọi người. Lời nói và hành động của Chúa luôn toả ra sự dịu dàng, nâng đỡ, khích lệ và ủi an. Chúa không nặng lời, không kết án, nhưng luôn yêu thương. Người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, Chúa Giêsu chẳng những dễ thương với người phụ nữ mà còn dễ thương đối với những người đã tố cáo chị nữa. Chúa Giêsu chỉ thinh lặng cúi xuống dùng ngón tay viết lên cát. Bị hỏi mãi Chúa mới trả lời: “Ai trong các ông sạch tội, hãy ném đá trước đi”. Họ rút lui bắt đầu từ những người lớn tuổi. “Tôi cũng không kết án chị đâu, chị hãy ra về và từ nay đừng phạm tội nữa” (x.Ga 8,1-11).
Chúng ta được mời gọi học bài học hiền lành, dễ thương của Chúa Giêsu. Người khuyên chúng ta bắt chước người mục tử trong dụ ngôn “Con chiên lạc” (Lc 15, 4-7): người mục tử không hề đánh đập, giận dữ, quát tháo, hay kéo lê con chiên lạc về mà lại tử tế đặt nó lên vai mình, vác về đàn. Chúa Giêsu cũng khuyên chúng ta bắt chước người cha trong dụ ngôn “Đứa con hoang đàng” (Lc 15,11-32): người cha không mắng chửi đứa con nhiều lầm lỗi trở về, cũng không nóng nảy, không xua đuổi mà lại ôm hôn con và dọn tiệc ăn mừng. Còn rất nhiều câu chuyện trong Phúc âm kể về sự hiền lành, dễ thương của Chúa Giêsu.
Căn cốt của bài học hiền lành và khiêm nhường của Chúa Giêsu là luôn tự ý bước xuống tới tận cùng và trút bỏ vinh quang: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa.Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá” (Pl 2, 6-8).
Hãy ghi danh vào học trường Giêsu. Hãy học bài học hiền lành, dễ thương. Chính khi thấm nhuần bài học đó, chúng ta không những sẽ gặp được Thiên Chúa mà chính Người sẽ rũ sạch mọi vất vả, âu lo và chúng ta sẽ tìm được nguồn bình an đích thực cho tâm hồn.
• Hát THÁNH TÂM NGÀI – Bùi Ninh (TTTC, tr. 571, câu 1)
2. Cầu nguyện
Lạy rất thánh Trái Tim Chúa Giêsu, để nên hiền lành và khiêm nhường như Chúa, Chúa mời gọi chúng con phải mở lòng ra với thế giới, với các mối tương quan. Thật phù hợp khi chúng con đang tiến bước vào tháng 11, tháng với nhiều sự kiện trọng đại; tháng mà chúng con có cơ hội tuyệt vời để sống mầu nhiệm hiệp thông của Giáo Hội. Giờ đây, chúng con xin dâng lên Chúa chút tâm tình để bày tỏ mối hiệp thông đó.
Tâm tình 1: Các Thánh Nam Nữ, đặc biệt là các thánh Tử Đạo, là họa ảnh tuyệt diệu của Tình Yêu Thánh Tâm
“Thiên Chúa là Tình Yêu”(1Ga 4,8), đó chính là quả quyết của thánh Gioan Tông Đồ, người được mệnh danh là môn đệ Chúa yêu. Tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện cách tròn đầy nơi Đức Giêsu Kitô, Con Một Người (x.1Ga 4,9). Tình yêu đó như sau: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”(Pl 2,6-8). Đó quả là một tình yêu vĩ đại của sự hy sinh quên mình, một tình yêu bao la tuyệt đối vì con người và cho con người chúng con. Tuy nhiên, tình yêu ấy không phải ở thế độc tôn, nghĩa là chỉ có và dừng lại ở nơi Thiên Chúa, nhưng được triển nở, được nối dài nơi tất cả mọi người, nhất là nơi các thánh Tông Đồ, các thánh Nam Nữ và các thánh Tử Đạo. Quả thế, đáp lại lời kêu gọi: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ gặt ra gặt lúa về”(Mt 9,38-39), các ngài đã sẵn sàng “lên đường”. Lựa chọn và trung thành là những nét chính tạo nên dung mạo một vị thánh. Lựa chọn và trung thành cũng là những bước đi của những người theo đuổi cuộc sống niềm tin. Nhưng chính lòng quảng đại và tinh thần trách nhiệm là nền tảng cho việc lựa chọn và trung thành. Các thánh đã quảng đại chọn lựa “con đường Giêsu”, trung thành bước trên con đường đó cho đến hơi thở cuối cùng. Như vậy, các ngài chính là họa ảnh tuyệt diệu của tình yêu Thập Giá, của tình yêu với Trái Tim chịu đâm thâu và của tình yêu Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, hiệp cùng các thánh Nam Nữ trên trời, chúng con đồng thanh tung hô, chúc tụng và cảm tạ Chúa. Cảm tạ Chúa vì chúng con được vinh dự làm con Chúa. Cảm tạ Chúa vì chúng con tin rằng, các thánh Nam Nữ đã được ân thưởng sau cuộc hành trình đức tin cam go dưới thế, các ngài đã- đang- và sẽ sống bên Chúa mãi mãi, và chính các ngài hằng bầu cử cho chúng con nơi tòa Chúa. Đồng thời, chiêm ngắm các thánh Trên Trời, chúng con thấy trước tương lai của chúng con đang hướng tới, đó chính là sự sống đời đời trên Thiên Đàng.
• Hát THÁNH TÂM NGÀI – Bùi Ninh (TTTC, tr. 571, câu 2)
Tâm tình 2: Một tình yêu chưa trọn vẹn nơi các Đẳng Linh Hồn
Khởi từ nguồn mạch Máu và Nước nơi cạnh sườn Đức Giêsu, ơn cứu độ của Thiên Chúa trào tràn trên tất cả mọi người, không thiên tư ai, cũng không loại trừ ai. Tuy nhiên, kể từ khi sự dữ len lỏi vào thế gian, con người không còn hoàn toàn giữ được “sự công chính nguyên thủy”. Trong số những người được coi là tốt lành, thánh thiện nhất, kể cả hàng Giáo phẩm trong Giáo Hội, hay các tu sĩ, đã mấy ai dám cho mình là hoàn toàn tuỳ thuộc vào Thiên Chúa? Ma quỷ và sự dữ vẫn lởn vởn đâu đó trọn kiếp nhân sinh. Vậy thì ai sẽ được cứu đây? Bằng tình yêu, Thiên Chúa đã tạo dựng con người, và cũng chính nhờ tình yêu, Ngài dùng mọi phương thế để cứu độ hết mọi người; điều duy nhất Ngài đòi hỏi là chúng con mở lòng đón nhận ơn tha thứ vô điều kiện của Ngài. Trường hợp tên cướp cùng bị đóng đinh với Đức Giêsu là một điển hình. Ấy vậy mà mấy người trong chúng con đã chân nhận điều này? Khi đi xưng tội chẳng hạn, chúng con nhấn mạnh nhiều tới việc được sạch tội, hơn là đón nhận lòng thương xót hải hà của Thiên Chúa. Và do đó, chúng con vẫn thường nghĩ rằng luyện ngục là nơi hoặc thời gian các tín hữu đã qua đời chờ đợi để được thanh luyện sạch mọi tội lỗi đã phạm hơn là tình trạng gia tang khát vọng đón nhận lòng thương xót vô hạn của Thiên Chúa. Dù thế nào đi nữa thì nơi các Đẳng Linh Hồn, chúng con thấy một tình yêu chưa trọn vẹn của các ngài với Thiên Chúa, và luyện ngục là nơi cần thiết để làm cho tình yêu ấy được tròn đầy.
Cầu nguyện cho người đã qua đời là một khẳng định của tín điều Hội Thánh Thông Công. Công Đồng Triđentinô nhấn mạnh: lời cầu nguyện của người sống có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người chết. Vì vậy, lạy Thánh Tâm tình yêu, chúng con khẩn nài lòng thương xót của Chúa ban ơn tha thứ cho những thiếu sót của các Đẳng Linh Hồn khi các ngài còn sống, mà sớm đưa họ về quê thật, hưởng hạnh phúc muôn đời bên hữu Chúa trên Thiên Đàng.
• Hát THÁNH TÂM NGÀI – Bùi Ninh (TTTC, tr. 571, câu 3)
Tâm tình 3: Hành trình từ cuộc đời này vào đời sống vĩnh cửu là một hành trình trở về nhà mình
Lạy Cha, đối với những người không có đức tin thì chết là hết. Nếu thế thì cái chết thật đáng sợ, vì nó là sự chấm dứt của tất cả những ước mơ. Mọi bất công đầy dẫy trong cuộc sống đều không được giải quyết. Con người sẽ tìm cách vơ vét với thái độ vô cùng nhẫn tâm và tàn ác vì họ nghĩ chỉ có đời này mà thôi. Thật là bế tắc!
Đức tin Kitô giáo dạy rằng: chết không phải là hết. Chết chỉ là khởi đầu của một cuộc hành trình đi vào cõi sống ngàn thu với Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống, Đấng đã dựng nên con người để họ được sống mãi mãi với Ngài trong yêu thương và hạnh phúc.
Cùng đích của cuộc đời là được sống mãi mãi với Thiên Chúa. Vậy nếu chúng con đã thực sự sống trong ân nghĩa của Chúa thì cái chết sẽ là lúc chúng con trở về ngôi nhà của mình. “Sinh ký tử quy”, chúng con sẽ trở về ngôi nhà của Thiên Chúa là Cha, cũng là ngôi nhà Chúa dành sẵn cho chúng con, một nơi không còn nước mắt với khổ đau, chỉ có niềm vui và hạnh phúc viên mãn.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, bằng tình yêu, Chúa đã chỉ rõ cho chúng con thấy cùng đích của đời người. Cùng đích ấy chính là ngôi nhà mà Chúa đã chuẩn bị sẵn, chờ đón mỗi người chúng con trở về. Nơi ngôi nhà ấy, chỉ có niềm vui hạnh phúc ngập tràn cùng Chúa, Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse cùng toàn thể các Thánh. Tuy nhiên, chính tự do mà Thiên Chúa ban tặng chúng con sẽ quyết định việc có trở về ngôi nhà ấy hay không? Tự do ấy được thể hiện nơi các chọn lựa và thái độ của chúng con trước các chọn lựa ấy trong đời sống dương thế của mỗi người chúng con. Vậy lạy Chúa, xin chỉ cho chúng con biết chọn lựa thế nào cho xứng với ơn Chúa, đồng thời giúp chúng con trung thành với các chọn lựa ấy, ngõ hầu chúng con hân hoan vững bước cùng nhau tiến về nhà Cha.
• Hát VỀ BÊN THÁNH TÂM – Giang Ân (TTTC, tr. 579, câu 1)
Tâm tình 4: Bắt đầu lại trong tỉnh thức và hy vọng
Lạy Chúa, dường như cuộc đời con người là một vòng lẩn quẩn. Quả thế, lúc còn nhỏ, thời còn ngồi trên ghế nhà trường, thì mong lớn thật nhanh để đi làm, để thực hiện những ước mơ to lớn. Đến khi trưởng thành, càng lớn lên càng thấy cuộc đời không đơn giản như những gì con người đã nghĩ tưởng, đã mơ ước. Và đến khi thực sự cảm thấy mình đã già, thì con người lại thường ngồi nhớ lại thủa xa xưa mà tiếc nuối: “Thời ấy mới đẹp làm sao!”. Con người là như thế, cứ đi tìm hoài và cứ mãi không thỏa mãn, để rồi thường xuyên quên rằng: cái chết sẽ đến với mình bất cứ lúc nào…
Cái chết là điều diễn ra hằng ngày đối với nhân loại. Ai cũng biết một chân lý là con người “có sinh có tử”. Tuy nhiên, ít ai nghĩ đến việc mình sẽ chết vào lúc nào. Dường như chúng con luôn có trước mặt một núi công việc và dự án, để rồi lo chạy trối chết theo nó mà không bao giờ thỏa mãn. “Anh em hãy thắt lung cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay. Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ.”(Lc 12,35-40)
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, Ngài đã chỉ cho chúng con bí quyết của cuộc sống: những công việc và hoài bão là điều tốt, nhưng chúng chỉ là phương tiện, để qua đó, chúng con thực thi thánh ý của Thiên Chúa. Thái độ của người đầy tớ chuyên cần đợi chủ đi ăn cưới về vào một giờ nào đó thật bất ngờ. Thắt lưng cho gọn để nhìn thấy việc cần làm và sẵn sàng tra tay hoàn tất; và thắp đèn cho sẵn: là làm việc với thái độ nghênh đón, chờ đợi. Vậy lạy Chúa, giờ đây chúng con xin mượn lời của bài hát “Xin giữ con” để nói lên tâm tình của mỗi chúng con với Chúa : “Nguyện xin Chúa giúp con bắt đầu và lại bắt đầu, dù khi thất vọng dù khi mỏi mòn con vẫn cậy trông. Nguyện xin Chúa giúp con bắt đầu và lại bắt đầu. Này con chiến thắng, này con chiến thắng, tươi sáng hy vọng”.
• Hát VỀ BÊN THÁNH TÂM – Giang Ân (TTTC, tr. 579, câu 2)
Tâm tình 5: Tự tình
Lạy Rất Thánh Trái Tim Chúa Chúa Giêsu yêu mến,
Chiêm ngắm Chúa trên thánh giá, với những dấu đinh nơi chân tay và cạnh sườn bị đâm thủng để cho máu cùng nước chảy ra, xin cho chúng con xác tín về tình thương nhưng không Chúa dành cho chúng con. Suy gẫm về tình yêu Chúa, xin cho chúng con biết học với Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu khi ngài thổ lộ: “Tình yêu chỉ có thể đáp trả bằng tình yêu”.
Học yêu và đáp trả tình yêu bằng trái tim nhạy cảm để yêu thương, tha thứ trong đời sống chung.
Học yêu và đáp trả tình yêu là không để trái tim mình bị thương tổn, hoặc làm tổn thương người khác vì những hành vi thiếu nhân bản, những cử chỉ lời nói thiếu lịch sự, tế nhị…
Học yêu và đáp trả tình yêu khi dám chịu đau khổ khi bị khinh khi, bỏ rơi và loại trừ.
Học yêu và đáp trả tình yêu khi không buông lời lên án chê bai, chỉ trích, can đảm đón nhận thái độ không được tôn trọng hoặc phải chịu thiệt thòi, bị đối xử không công bằng, khi người khác quên ơn, bội nghĩa….
Học yêu và đáp trả tình yêu là quyết tâm tập luyện cho mình có được nhịp đập thương cảm, yêu như Chúa và các thánh; một con tim mở ra để đón nhận tình yêu của Chúa và của người khác.
Học yêu và đáp trả tình yêu để nhìn thấy nhu cầu của cộng đoàn, của người khác mà sẵn sàng giúp đỡ, cộng tác và sẻ chia.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, nếu mỗi người trong chúng con đã thực sự “học yêu và đáp trả tình yêu của Chúa”, thì cho đến hôm nay vết thương nơi trái tim của Chúa đã được chữa lành. Xin lấy khỏi chúng con quả tim chai đá và ban tặng quả tim biết yêu thương, để chúng con kín múc được tình yêu từ Thánh Tâm Chúa và mở ra cho mọi người. Lạy Trái Tim rất Thánh Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường xin uốn lòng chúng con nên giống như rất ThánhTrái Tim Chúa.
• Hát TRONG TRÁI TIM CHÚA – Phanxicô (TTTC, tr. 575, câu 1, 2)
III. Kết thúc
1. Đọc kinh về Thánh Tâm (tùy chọn)
2. Hát bài hát kết thúc
Bài viết liên quan
Năm Thánh Truyền Thông: Câu chuyện là con đường ngắn nhất để kết nối giữa con người
Mười nghìn chuyên gia truyền thông từ khắp nơi trên thế giới quy tụ về...
Th1
Mỗi người được hưởng bao nhiêu ơn toàn xá mỗi ngày trong Năm Thánh
Trong Năm Thánh 2025, Giáo hội Công giáo đã đưa ra các hướng dẫn cụ...
Th1
Năm Thánh : Tìm hiểu ý nghĩa thực sự của Ân xá trong Giáo hội Công giáo
Mỗi lần Năm Thánh đến, chúng ta thường nói về ân xá: Nhưng ý nghĩa...
Th1
Hành hương Năm Thánh: Ngày hiệp thông và liên đới tín hữu các Giáo xứ
Vào lúc 8h sáng ngày 03/01/2025, gần 500 tín hữu từ các Giáo xứ (do...
Th1
Xuân hy vọng của những người hành hương hy vọng
Năm 2025 chính thức đến với chúng ta khi tiếng chuông đồng hồ điểm 0h....
Th1
Niềm vui trong Mùa Vọng: Tình yêu và sự chia sẻ
Dưới tiết trời se lạnh, những cơn mưa phùn lấm tấm của Huế nhẹ nhàng...
Th12